Âm
Nhạc Và Tôi
(Dương
Túy Phượng)
Tôi
xuất thân từ một gia đình có duyên với âm nhạc!
Theo lời ba tôi kể lại, hồi còn nhỏ chú tôi mê
đàn hơn mê học. Các anh họ tôi còn thuật lại rằng
ngày còn là sinh viên, chú là bạn thân của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn và nhạc phẩm Chiều
Chủ Nhật Buồn tác giả đã viết riêng
tặng chú. Chú đã mất từ năm 64 và người nhạc sĩ
tài ba kia cũng đã qua đời nên tôi không thể kiểm
chứng được câu chuyện này, tôi chỉ biết một điều
nhạc sĩ TCS đã có mặt trong đám đông ngày đưa
tiễn chú tôi đến nơi yên nghỉ cuối cùng tại Huế.
Hồi còn trẻ, ba tôi vẫn thường đánh đàn guitar.
Sau khi xe tơ kết tóc với mẹ tôi, ông đã bày cho
mẹ tôi đánh đàn mandoline. Từ ngày thuyên chuyển
vào làm việc tại Sài Gòn, tôi không biết vì lẽ
bận rộn với việc công hay vì ông muốn khoát lên
một vẻ nghiêm nghị để dạy dỗ con cái, tôi chẳng
thấy ba tôi ôm đàn nữa. Thay vào đó, ba tôi quyết
định cho các con học đàn.
Từ lúc các em tôi lên 7 lên 8, tôi đã thấy các
em được lần lượt cho đi học đàn. Con gái học dương
cầm, trai thì vĩ cầm. Vậy là hai loại đàn cứ thi
nhau làm khổ tai hàng xóm. Khổ một nổi, các em
tôi lại không đánh nhạc tân thời, cứ nhạc cổ điển
mà chơi; đến ngay tôi, mỗi lần các em tập đàn
thì cũng phải âm thầm lui vào phòng đóng chặc
cửa lại huống hồ gì hàng xóm! Có một chuyện mà
tôi vẫn nhớ hoài, lúc đó thì rất kinh hãi, nhưng
sau này mỗi lần nhắc đến thì thấy buồn cười.
Chuyện như thế này, một trưa nọ, cô em gái út
của tôi đang ngồi tập đàn thì bỗng nghe tiếng
“ịch ịch ịch” thật to ở nhà xe và mấy con chó
trong nhà chạy ra sủa om xòm. Em tôi rón rén đi
ra kiểm tra thì thấy mấy cục gạch to tướng ai
đó đã ném vào và bỏ chạy mất. Nhà tôi ai cũng
đoán thủ phạm là ông sinh viên y khoa “4 mắt”
hay gườm gườm (biết tên người ta, nhưng chị em
tôi vẫn thích đặt tên theo hình dạng) nhà ở phía
bên phải đã ném đá cảnh cáo vì tiếng đàn của các
em, không thể là của mấy ông sinh viên trọ học
ở trước mặt nhà vì mấy ông này đi ra đi vào lúc
cũng toe toét nhe răng cả. Từ đó, các em tôi biết
ý, tránh không tập đàn vào buổi trưa, hoặc khả
dĩ gần ngày thi, cần phải tập ráo riết thì phải
đành đạp cái “chân vịt” xuống để hãm âm thanh.
Cách đây vài năm, nhân dịp ghé chơi nhà một bà
bạn cao niên ở nam California, vô tình chị ấy
nhắc đến tên vị bác sĩ tim NTH mà chị vẫn đi khám
bệnh. Tôi cười và kể cho chị ấy nghe chuyện ngày
xưa. Chị bạn tôi đã đem câu chuyện thuật lại cho
vợ chồng vị B.S nầy. Vợ anh nói: “Mấy cô bên ấy
hiền khô hà!” trong khi anh cười bẽn lẽn và rằng:
"… hồi đó tôi còn trẻ quá, vả lại học ngày học
đêm mệt quá, trưa mới nhắm mắt nghỉ một tí thì
tiếng đàn lại trỗi lên …” Thì ra gia đình tôi
đã đoán đúng tác giả của các cục gạch kia! Quả
thật trái đất tròn! Bây giờ vị BS đó đã bất ngờ
qua đời khi tuổi đời còn quá trẻ. Tôi nghe tin
qua chị bạn và thoáng buồn thương tiếc cho anh
láng giềng biết mặt biết tên nhưng không quen
năm xưa.
Ngược lại với mấy người em, chị cả và tôi lại
tránh xa cây đàn. Sau 1975, ba tôi suy luận rằng
có một chút âm nhạc thì đở cực tấm thân nên ông
đã khuyến khích hai chị em tôi đi học guitar.
Nhưng học được hai hôm thì tôi kiếm đủ cớ để khỏi
đi học, vài tuần sau thì chị tôi cũng rút lui.
Với chị tôi thì cũng rất dễ hiểu vì chị tôi mê
sách hơn mê đàn, riêng tôi thì lại thấy mấy cái
giây đàn quá đổi phức tạp. Tôi đổ thừa là tại
vì không được đi học đàn từ bé giống như các em
nên bây giờ lớn, khó học! Mẹ tôi giải thích rằng
hồi đó ở ngoài Trung không có trường QGAN do đó
hai chị em tôi không có cơ hội để học đàn.
Trái ngược với ba tôi, đã treo cây đàn cho bụi
bám nhện giăng, mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn đem cây
đàn mandoline ra biểu diễn cho các con. Thêm vào
đó, mẹ tôi rất thích hát, ngay cả những lúc hai
tay bà bận rộn may vá thêu thùa, bà cũng luôn
miệng hát từ bài nọ qua bài kia. Những lúc mẹ
tôi ngồi đan hoặc may thì tôi vẫn lẩn quẩn chung
quanh, thứ nhất là tò mò xem kỳ này được mặc áo
màu gì, kiểu gì, thứ hai là được nghêu ngao hát
theo mẹ. Nhưng ngược lại lúc nào mẹ tôi lăng xăng
trong bếp thì tôi tránh thật xa vì tôi chúa ghét
làm bếp. Lắm khi mẹ tôi cũng phàn nàn với ba tôi
là cả bầy con gái mà không đứa nào chịu vào bếp,
nhưng ba tôi lại chủ trương là: "học chữ, học
đàn mới lâu, học nấu ăn thì đâu có khó, lớn lên
học cũng đâu có muộn...!” Được thể, bốn chị em
gái tôi không đứa nào bén mảng vào gần bếp, nhất
là những lúc mẹ tôi đang điều binh khiển tướng
trong giang san của bà. Chẳng may mà mẹ tôi thấy
lấp ló ở cửa bếp thì chỉ có nước chờ ba tôi về
để cầu cứu! Cũng vì lý do đó, kết quả là ngày
lên xe bông về nhà chồng, tôi chưa biết nấu nước
sôi! Cũng may trời thương, tôi được một anh Bắc
Kỳ xỏ mũi; ông ấy khó đủ điều, duy chỉ có một
cái tính rất dễ thương là dễ tính ăn. Dọn ra bàn
món lương hào hải vị gì cũng không thích bằng
món bún luộc với đậu hủ chiên chấm mắm tôm vắt
chanh. Gì chứ món này thì tôi rất lành nghề. Trở
lại chuyện hát hò của mẹ tôi. Nhạc phẩm mà mẹ
tôi ưa thích nhất là bài Thoi
Tơ. Mẹ tôi hay tự hào kể lại là trước
kia ba tôi vẫn hay ví von giọng hát của bà giống
của cô ca sĩ Tâm Vấn. Bây giờ mẹ tôi đã trên 70
tuổi, giọng của mẹ đã yếu đi nhiều, nhưng tính
nghệ sĩ của bà vẫn tràn đầy. Những hôm nhà có
các nhạc sĩ tụ tập đến đàn ca thì bà cũng không
bỏ cơ hội hát lại những bài hát tiền chiến mà
khi xưa bà vẫn thích.
Tuy không thích học đàn, nhưng tôi lại thích ca
hát và làm văn nghệ. Lõm bõm hát theo mẹ nên tôi
thuộc nhiều nhạc phẩm tiền chiến. Bài hát mà tôi
hát một mình trước đám đông lần đầu tiên là bài
Thu Vàng
của nhạc sĩ Cung Tiến.
Đó là năm tôi học lớp nhất tại trường tư thục
St. Thomas (nhà dòng Đa Minh). Thầy tôi năm ấy
là thầy Phong, một người còn rất trẻ và rất yêu
thích văn nghệ. Hàng tháng thầy vẫn tổ chức hát
trong lớp và một năm đôi lần tổ chức “đại nhạc
hội liên lớp.” Trong suốt niên học, tôi chẳng
bao giờ dám hát đơn ca, lúc nào cũng hợp ca và
tranh đứng hàng đàng sau. Trong một học kỳ, thầy
bỗng quyết định tất cả học sinh trong lớp phải
chọn một bài đơn ca, sẽ được thu thanh và chấm
điểm cho vào học bạ. Nghe đến học bạ là tôi đã
tá hỏa tam tinh! Ngày nào tôi cũng đứng trước
gương, vừa hát vừa làm điệu bộ, nhưng lúc nào
cũng thấy tay chân thừa thải. Thôi thì đành liều
vậy! Ngày thi hát đến, các bạn tôi lần lượt tươi
cười leo lên bục gỗ hát một cách vui vẻ, riêng
tôi thì ngồi xanh mặt, lạnh tay chân, chờ đợi
đến phiên mình lên… trả bài. Bây giờ suy nghĩ
lại, tôi tự hỏi vì sao lúc đó mình lại thích bài
hát này trong khi các bạn lại hát những bài hát
hợp với lứa tuổi học trò hơn. Kiểm điểm lại những
bài tôi hay hát thì bài nào cũng ít nhiều mang
hơi hướng của mùa thu. Có lẽ vì những câu thơ
của nhà thơ Lưu Trọng
Lư mà tôi đã từng nghe từ thuở nhỏ
“…em không nghe mùa
thu,
lá thu rơi xào xạc,
con nai vàng ngơ ngác,
đạp trên là vàng khô…”
Hình ảnh này đã ngự trị trong trí
non nớt của tôi từ lúc nào, và tôi đã mơ một ngày
nào đó được nhìn thấy mùa thu với thảm lá vàng!
Những năm trung học đệ nhất cấp thì cái tính nhút
nhát năm nào vẫn còn kè kè bên tôi như hình với
bóng. Năm học đệ thất, một hôm vào giờ chơi, chị
trưởng lớp ngồi xuống cạnh tôi và bảo tôi hát
cho chị nghe bài Vết
Thù Trên Lưng Ngựa Hoang. Không hiểu
ai trong các cô ca sĩ người Huế là thần tượng
của chị mà bà chị cứ khen rối rít là “người Huế
thì hát phải hay, thôi hát cho L. nghe với mà…”
Vậy là tôi nhắm mắt liều mình hát đại vì không
những chị là trưởng lớp mà chị còn cao hơn tôi
cả cái đầu nên tôi … cả nể. Hát xong thì tôi đỏ
mặt tía tai và ngôì thừ người ra vì ngượng! Không
biết hôm ấy tôi có làm thủng màng nhỉ của chị
ấy không mà sau đó không thấy chị yêu cầu tôi
hát nữa. Hú hồn!
Năm đệ ngủ, cô Bích Vân là một giáo sư trẻ từ
trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt, chuyển về dạy Lý
Hóa tại Trung Thu. Cô đã là thần tượng của tôi
từ thuở ấy. Cô hiền, cô đẹp, nhất là cô có hai
bàn tay búp măng, khi giảng bài cô hay chắp hai
tay trước ngực. Cô đã dạy cho lớp tôi một bài
hát của nhạc sĩ TCS mà cho đến nay tôi vẫn còn
nhớ rõ. Hồi đó vì rụt rè, tôi chỉ lí nhí hát theo;
giá như bây giờ được gặp lại cô, tôi sẽ hát thật
to cho cô nghe. Bài hát như thế này:
Ông tiên vui,
ông có cái râu dài,
trên đỉnh đồi thường đêm ông ghé qua
khi em lên
ông thường đi đâu vắng
khi em về
em buồn đến ngẩn ngơ!
Đến năm học đệ nhị cấp thì tôi chuyển qua học
trường khác. Trường tôi học có thông lệ mỗi năm
đến tháng 12 là cả trường nhộn nhịp tập văn nghệ
sửa soạn lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng. Học sinh
lớp nhỏ tập dượt văn nghệ lu bù để thi đua được
chọn đi trình diễn ở rạp Thống Nhất, trong khi
các chị lớp đệ nhất thì thi đua tài sắc với nữ
sinh trường bạn để được chọn làm 1 trong 2 Bà,
được cưỡi voi đi diễn hành.
Năm đệ tam, tôi gia nhập ban văn nghệ của lớp
và để tham gia thi đua cho ngày lễ Hai Bà, lớp
tôi tập múa bài Đưa
Em Tìm Động Hoa Vàng. Mỗi khi có giờ
trống là hối hả rủ nhau đi tập múa. Năm đó không
biết múa may ra sao mà đội văn nghệ của lớp tôi
rớt ngay vòng sơ kết. Vậy là mộng được đi trình
diễn tại rạp Thống Nhất năm ấy thành mây khói!
Vấn chưa nhụt chí, năm lớp đệ nhị, trưỏng ban
văn nghệ của lớp cũng là một tay múa chuyên nghiệp
trong một đoàn vũ gì mà tôi quên mất tên. Điệu
múa lớp tôi trình diễn năm ấy cũng từa tựa các
nhịp điệu của đoàn múa trong chương trình ca nhạc
của nhạc sĩ Hoàng Thi
Thơ. Khổ nổi là màn nầy cần một nhân
vật nam mà không tên nào chịu làm đực rựa. Với
tinh thần yêu văn nghệ “cao độ”, tôi tình nguyện
hóa trang. Màn múa vừa xong, đội múa vừa chạy
ra sau hậu trường thì mấy đứa bạn trong lớp đã
la lên: "... mấy bà lớp đệ nhất mới vào kiếm mày
kìa. Mấy bả hỏi thằng nào trông bắt mắt quá, mượn
được của dân VTT phải không?” Nói xong cả bọn
phá ra cười ngặt ngẻo! Lúc đầu ai cũng tiên đoán
là đội múa lớp tôi không về nhất cũng về nhì,
nhưng cuối cùng thì bị lọt sổ. Lý do này chỉ mình
tôi biết, mình tôi hay, nhưng không dám tỏ cùng
ai. Cớ sự là lúc đang múa, đến một đoạn tất cả
các vũ công cùng có một nhịp điệu là tay trái
đặt lên eo, tay phải đưa lên trời, rồi giữ nguyên
vị thế như vậy chờ đến đúng điệu nhạc kế tiếp
thì bước một chân tới trước. Trong lúc đang ngưng
chờ nhạc, tôi nhìn các vũ công hàng trước mặt
thì thấy mọi người đều có tay trái và phải ngược
lại với của tôi. Liếc nhanh qua bên tay trái và
phải cũng đều y chang như vậy. Biết là mình nhớ
nhầm, tôi len lén đổi tay, nhưng chẳng qua mắt
được các giáo sư giám khảo ngồi sát sân khấu.
Tiếc thay bao công lao tập dượt của các bạn, chỉ
vì tôi, đều gửi gió cho mây ngàn bay!
Qua đến năm đệ nhất thì chẳng còn có cơ hội tập
văn nghệ và thi đua đóng vai Hai Bà để được cưỡi
voi. Bao nhiêu thay đổi, thầy trò đều lo chạy
tán loạn. Vậy là mộng được trình diễn tại rạp
Thống Nhất cũng như mộng được cưỡi voi đã không
bao giờ thành sư thật!
Rồi tôi đi lấy chồng, bao nhiêu đam mê âm nhạc
đều được xếp lại. Rồi cũng vì cơ duyên và nhờ
vào nhiệt tâm của cô MH, tôi được liên lạc với
một người bạn cũ cùng lớp. Tôi ít khi đi đâu xa
nhà vì có con nhỏ, nhưng đã sắp đặt lại công việc
để đi dự đám cưới của bạn và cũng với hy vọng
được gặp lại các bạn khác năm xưa. Từ đó, tôi
trở lại sinh hoạt với nhóm cựu học sinh Trung
Thu. Và bỗng nhiên cái tính năng động trong tôi
cùng với tình yêu văn nghệ năm xưa của tôi trỗi
dậy.
Trong chương trình văn nghệ của hội ngộ 2003,
tôi tình nguyện hát hai nhạc phẩm Nhớ
Mùa Thu Hà Nội và Quỳnh
Hương. Tối tối, chờ con đi ngủ, tôi
lại lôi cái máy thâu thanh, đồ chơi của cháu lúc
còn bé, ra thử giọng. Có hôm đã lùa nó đi ngủ
rồi, nhưng nghe tiếng hát ở phòng ngoài, thằng
bé lò dò ra nhìn. Lúc đầu còn trố mắt ngạc nhiên
vì chưa bao giờ nghe thấy mẹ hát, sau khi hiểu
ra thì nó chuyển sang cười ngặt nghẻo! Nhưng trong
đêm hội ngộ 2003, khi thấy cái sàn gỗ với đèn
xanh đỏ lấp lánh, tôi lại lạnh cẳng và phớt lờ
luôn hai bài hát. May quá, chương trình thì dài,
thời gian lại eo hẹp, vậy là tôi đã không bị ban
tổ chức đi theo đòi nợ! Quá may mắn!
Dịp hội ngộ 2005, tôi nhận lời cộng tác với ban
tổ chức trong vài tuần lễ thật gần kề ngày hội
ngộ. Đúng ra chương trình văn nghệ không có những
bài hát tiền chiến mà đã có đề tài hát tự do.
Tôi đã tình nguyện hát nhạc phẩm Không
Còn Mùa Thu. Tên bài hát cũng như
tên người hát đã được lên danh sách đầy đủ, nhưng
vì tôi nghỉ ngày hội ngộ cũng là ngày ghi nhớ
công ơn của Thầy Cô nên tôi đề nghị với anh trưởng
ban tổ chức đổi chủ đề thành nhạc yêu cầu do chính
quí thầy cô chọn. Vì lẽ đó, chương trình bị lộn
tùng phèo. Ban tổ chức đã phải gấp rút liên lạc
với quý thầy cô để xin tên bài nhạc. Thế là chị
trưởng ban văn nghệ lại phải sắp đặt lại chương
trình. Tôi viết lên đây như một lời tạ lỗi cùng
chị trưởng ban văn nghệ hội ngộ 2005. Không những
chị đã phải bỏ công ra sắp xếp lại chương trình,
không hề cằn nhằn tôi một tiếng mà còn bị tôi
ẳm nhẹ dĩa đồ ăn của chị! Câu chuyện như thế này!
Trong khi bàn thảo về các món ăn cho đêm hội ngộ
2005, tôi đã đề nghị xin có món ăn chay trong
thực đơn vì sẽ có một số người ăn kiêng, ít nhất
trong đó có chị trưởng ban văn nghệ và tôi; chị
ăn chay vì lý do tín ngưỡng, tôi ăn chay vì lý
do sức khỏe. Tôi được sắp đặt ngồi chung với ban
tổ chức cạnh sân khấu để dễ dàng làm việc. Sau
khi tạm xong công việc của ban tiếp tân, cảm thấy
kiến cắn bụng, tôi trở về bàn để kiếm gì ăn. Nhìn
vào bàn thì thấy toàn các món thịt, chỉ có một
dĩa mì xào rau cải nằm một bên. Đoán biết là món
ăn chay của chị trưởng ban văn nghệ, nhưng kêu
thêm thì tốn kém cho ban tổ chức, vậy là tôi nhắm
dĩa này mà đánh chén. Lúc tôi ngồi vào thì bàn
rất lộn xộn vì ai cũng tíu tít với công việc của
mình nên không biết chỗ nào của ai ngồi. Không
kiếm được cái chén hay đôi đũa sạch, tôi đã bê
luôn dĩa đồ ăn chạy qua bàn các bạn tôi đang ngồi
với ý định kiếm một cái dĩa sạch để sớt một ít
rôì trả dĩa mì xào lại. Qua đến nơi, vừa đặt dĩa
xuống bàn thì mấy cô bạn tíu tít gọi nhau chụp
hình, rồi thì người hỏi câu này, kẻ nói câu khác,
tôi mãi nói cười, quên bẵng đi mất chuyện trả
dĩa mì lại chỗ cũ. Chưa xong, ban tổ chức đã đi
kiếm tôi yêu cầu làm công tác “trưng cầu dân ý.”
Vậy là dĩa mì xào của chị trưởng ban văn nghệ
đã thật sự quên mất đường về! Sau này nghe kể
lại thì chị đã đi kiếm dĩa mì xào và không biết
ai đã phỏng tay trên dĩa đồ ăn của mình! Trở lại
chuyện chọn bài hát, sau khi được anh trưởng ban
tổ chức cho xem danh sách nhạc yêu cầu của quý
thầy cô, tôi chọn nhạc phẩm Gửi
Gió Cho Mây Ngàn Bay. Đây cũng là
một bài hát mà tôi đã từng nghe mẹ tôi hát nhiều
lần những ngày còn bé, nhưng lúc đó tôi chỉ biết
hát theo mà không để ý đến lời hay ý đẹp trong
câu hát. Bây giờ có cơ hội suy gẫm, tôi mới nhận
ra hết cái trữ tình và lãng mạn của bài hát. Và
cũng để cho chương trình văn nghệ được mới lạ,
tôi đã liên lạc riêng với cô Kiều Loan, người
đã yêu cầu bài hát này, để xin được song ca với
cô. Cô đã vui vẻ chấp thuận, nhưng có một trở
ngại là cô sống ở nam Cali, trong khi tôi sống
ở vùng Đông Bắc, do đó thầy trò chẳng có cơ hội
tập dượt chung. Dự định là sẽ đến sớm gặp cô vào
buổi sáng lúc họp mặt tại công viên, vì lý do
trục trặc kỹ thuật, tôi đã đến trễ gần 2 tiếng
đồng hồ. Mãi lúc gần giải tán tôi mới có cơ hội
đi kiếm cô để xin tập sơ qua. Vậy là thầy trò
đưa nhau ra một gốc cây xa xa, trên bãi cỏ, không
đàn, cứ vậy mà tập dượt. Giọng cô thật ấm và truyền
cảm, đã có lúc tôi muốn xin cô đơn ca dùm cho
luôn! Mặc dầu cô đã dặn dò: "cô thích hát chậm
chậm thôi và cô không đếm nhịp, lúc nào em vào
là cô vào đấy nhé..,” nhưng khi đứng trên sân
khấu cô lại là người hát chính; cô hát rất chuẩn,
tôi chỉ nương theo nhịp điệu của cô mà hát.
Ngày hội ngộ 2007, còn đang phân vân chưa biết
chọn hát bài gì thì L.K. đã liên lạc cho biết
nếu về kịp ngày hội ngộ thì sẽ hát bài Mời
Em Về của nhạc sĩ Việt
Dzũng. Tôi đã vội vàng xí phần: “nếu
L.K. không về kịp là chị sẽ phỏng tay trên bài
hát này đó nghe!” Và tiếc rằng L.K. đã không về
kịp và tôi cũng không có dịp phỏng tay trên của
L.K. vì... tôi đã bị khớp sau khi thấy đôi uyên
ương L.L & T. hát quá điêu luyện!
Hôm nay ngồi ôn lại chuyện cũ và viết lên những
dòng tâm sự này, lòng tôi đã rất vui vì một trong
những niềm mơ ước của tôi đã thành hiện thực.
Các bạn ạ, sau 35 năm dài, cuối cùng thì tôi cũng
đã thực hiện được giấc mơ nhỏ bé của tôi; tôi
vừa gặp lại cô Bích Vân và đã hát cho Cô nghe
bài hát năm xưa. Vì thế tôi xin tạm chấm dứt sự
nghiệp âm nhạc của tôi tại đây và xin hẹn gặp
tất cả các bạn vào ngày hội ngộ 2009.
Dương
Túy Phượng
Cựu học sinh trung tiểu học Trung Thu
và nữ trung học Trưng Vương – Saigon
9/2007