Mùa Thu Qua Thi Ca Việt Nam
(Dương Viết Điền-CHS Niên Khoá 57-61)

Ai đã từng đọc bài thơ nỗi tiếng "Chansons D’automne" của thi- sĩ lừng danh Pháp-quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi-hồi và xúc-động. Không xúc-động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng thơ bất-hủ sau đây để nức-nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào:

Les sanglots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon coeur
D’une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l’heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m’en vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte

Tiếng đàn ai đó lê-thê
Vĩ- cầm réo-rắt ê-chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng-hồ
Lòng như héo-hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ-niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót-xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang-hồ phiêu-bạt lá vàng tả-tơi..

(Lãng-Du)

Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ trong lành,rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời.

Mùa thu là mùa các thi-nhân đi tìm những vần thơ để sáng-tác thành những tuyệt-phẩm bất-hủ nghìn năm.

Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay bay khắp trời rồi lác-đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu, mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi, rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm-thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng bay bay, mùa của lá vàng rơi rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẽo đường. “Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về". Ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về lá vàng rơi mỗi độ thu về qua những dòng thơ trữ tình sau đây.

Hình ảnh nỗi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai câu thơ sau đây của thi-sĩ Tản- Đà:

Trận gió thu-phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang

Nhưng hình ảnh trữ tình và lãng-mạng nhất là hình ảnh con nai vàng ngơ-ngác giưã rừng thu qua bài “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư với những câu thơ năm chữ nghe thật êm-đềm như khúc nhạc tình thu trong rừng vắng:

Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào-xạc
Con nai vàng ngơ-ngác
Đạp trên lá vàng khô

Không phải chỉ có Tản Đà hay Lưu Trọng Lư mơí nói đến lá vàng khi mùa thu tới; hầu hết các thi-nhân Việt-nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng cách diễn tả hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ diễn tả về lá vàng mùa thu của một số thi-nhân Việt-nam

Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng
(Huy-Cận)

Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng
(Xuân-Diệu)

Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
(Chế lan Viên)

Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương
(Thái Can)

Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa
(Ngô chi Lan)

Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương (Nguyên-Du)

Ngoài lá vàng rơi là biểu-tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến ánh trăng thu huyền-ảo. Nói đến mùa thu mà không đề-cập đến ánh trăng thu mờ-ảo sau áng mây trời giữa đêm khuya thanh-vắng làmột sự thiếu sót lớn lao đối với mùa thu.

Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng-vặc giữa trời trong khi lá vàng rơi nhè nhẹ giữa đêm khuya cô-tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn ảo-nảo gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u-buồn man-mác trước cái lạnh không làm tê-buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta bâng-khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung-nhớ lạnh-lùng.
Nếu thi-sĩ Thượng Quan-Nghi đời Đường bên Trung-Quốc đã diễn-tả cái đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:

Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu”
“Sườn non trăng sáng chim bay
Đồng thu gió lộng, ve say nhạc sầu

(Chi-Điền dịch)

Thì tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy để diễn-tả chị Hằng giữa đêm thu huyền-diệu. Thật vậy nếu bài “Tiếng thu” của Lưu trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ mất đi rất nhiều ý-nghĩa về mùa thu:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn-thức

Riêng nhà thơ Xuân-Diệu đã nhân-cách hóa ánh trăng thu khiến những dòng thơ trở thành bất tử:

Thỉnh-thỏang nàng trăng tự ngẩn-ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò

Tuy-nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi-sĩ Hàn Mặc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại.

Ta hãy nghe Hàn Mặc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ với lối nhân-cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp Hằng-Nga đang rón-rén dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng:

Bóng nguyệt leo song sờ-sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn

hay là:

Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe

Ngoài Lưu trọng Lư, Hàn mặc Tử, Xuân-Diệu ra, ta cũng thấy rất nhiều nhà thơ nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài thi-nhân đãû ca-tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại:

Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh-thành
Đa-đoan vó ngựa chung-tình bánh xe.
(Nguyễn-Bính)

Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
(Nguyễn -Khuyến)

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi
(Tản-Đà)

Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh-lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu-hắt trên đầu tường vôi
(Đặng trần Côn-Đoàn thị Điểm địch)

Vi lô san-sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần-hôn!
(Nguyễn-Du)

Đêm thu gió lọt sông đào
Nửa vành trăng khuyết ,ba sao giữa trời
(Nguyễn-Du)

Hoa xuân nọ, còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia, chưa hé hàn-quang
(Ôn như Hầu)


Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay-gắt rực lửa như mùa hạ trái lại rất mát dịu trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng. Đi dưới nắng thu người ta thấy tâm-hồn rất thoải mái lâng-lâng, nhất là những lúc trời chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố-phường. Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng-khiu chỉ còn những cành trụi lá dọc hai bên đại-lộ lúc chiều tà.

Ai cũng biết rằng các thi-nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề-cập đến nắng thu. Nhà thơ Chế lan Viên đã làm cho ta ngạc-nhiên khi viết mấy câu thơ liên-quan đến nắng thu như sau:

Chao ôi! thu đã tới rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao.

Nhưng ngạc-nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích-Khê sau đây
làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai-điệu tuyệt vời:

Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh-mông.

Dĩ-nhiên, mỗi nhà thơ diễn-tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết đều ca-ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.

Nhà thơ Xuân-Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất-ngôn đầy lưu luyến trữ-tình:

Nõn-nà sương ngọc quanh thềm dậu
Nắng nhỏ bâng-khuâng chiều lỡ thì

Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc-Ly đều cảm thấy hồn mình xao-xuyến bâng-khuâng:

Tôi đứng bên nầy bờ dĩ-vãng
Thương về con nước ngại-ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha-thiết nắng hoe thềm

Ngòai ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu với những dòng thơ thật đẹp và thật buồn:

Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê-lương thêm bận khúc ly-hòai.

hay là:

Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non mục-tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái.

Nam-Trân Nguyễn học Sỹ

Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu giữa đêm khuya thanh-vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang-hôn, thì hình ảnh buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho lòng người lạnh-lẽo, u-buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương, bơ-vơ giữa thế-giới mưa rơi buồn-bã.

Trước cảnh mưa thu ảm-đạm ở ngòai bệnh-viện, nhạc-sĩ tài ba Đặng thế Phong đã xúc-động rồi sáng tác ngay bản nhạc "Giọt mưa thu." trước khi vĩnh-biệt trần-gian để lại cho đời những giọt lệ thu sầu thương nức-nở, những giọt lệ tình ai-oán lâm-ly: "Ngòai hiên giọt mưa thu thánh-thót rơi. Trời lắng u-buồn mây hắt-hiu ngừng trôi. Nghe gió thỏang mơ-hồ trong mưa thu ai khóc ai than hờ…"

Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn-bã nhất của trần thế. Đọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy cảnh mưa thu thật là tiêu-điều buồn-bã:

Thánh-thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu-sơ
Xanh um cổ-thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng -giang phẳng-lặng tờ

Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân-Diệu cũng cho ta thấy cảnh lặng lẽ u-buồn:

Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà

Tuy-nhiên nếu trăng thu, nắng thu, mưa thu là, những đề tài bất-hủ cho các văn thi-sĩ, nhạc-sĩ lấy đó để sáng-tác thì sương thu là một đề tài không kém quan-trọng để các thi-nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh-sương, ai đã từng ra sau vườn, đều trông thấy những giọt sương đọng trên cành cây, ngọn cỏ giống như những hạt kim-cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến ngày hôm nay,rất nhiều người Việt-nam đã thuộc lòng đọan văn của nhà văn Thanh-Tịnh tả về cảnh sương thu: "Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu-yếm nắm tay tôi, dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp." Một nhà thơ nỗi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca-ngợi sương thu qua bài thơ "Sương rơi." Đó là thi-sĩ Nguyễn-Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác-phẩm bất-hủ về sương thu:

Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa
Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi ! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt
Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Điêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,
Hạt sương Mồ hoang !… Em ơi !…”
Thành một
Vết thương !…

Nguyễn-Vỹ.

Như đã được trình bày ở trên,mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác-đác, có trăng thu mờ aỏ giữa đêm buồn, có những giọt mưa rơi thánh-thót thật lâm-ly. Đã thế, nhiều lúc ánh nắng chiều thu làm cho người lữ-hành thêm cô-độc bâng-khuâng, luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc-lòai, như biệt-ly hiu-quạnh.Vì thế mà nhiều người đã cho rằng, mùa thu là mùa của biệt-ly, của xa cách nên tình thu thường nức-nở nghẹn-ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và cũng là nhung-nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt-ly nhung-nhớ, là nói đến ngăn-cách xa nhau, à nói đến chia-ly buồn-bã và lắm lúc nói đến vĩnh-biệt ngàn đời để rồi "nghìn-trùng xa cách người đã đi rồi, còn gì đâu nữa mà khóc với cười."

Sau đây, ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về sự biệt-ly, sự nhung-nhớ cũng như những nỗi u-buồn giữa mùa thu:

Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u-uất, hận chia-ly
Ít nhiều thiếu-nữ buồn không nói
Tựa cưả nhìn xa nghĩ-ngợi gì

(Xuân-Diệu)

Hay những dòng thơ lục-bát đầy vẻ âm-u,tiêu-điều của Huy-Cận:

Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân-gian e cũng tiêu-điều dưới kia.

Hoặc những câu thơ đầy nhung-nhớ quằn-quại giữa mùa thu:

Chao ôi! mong nhớ ! ôâi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.

(Chế lan Viên)

Hay hình ảnh xa vắng biệt-ly của người chinh-phu trong lòng người cô-phụ:

Em không nghe rạo-rực
Hình ảnh kẻ chinh-phu
Trong lòng người cô-phụ.

(Lưu trọng Lư)

Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ-thương của thi-nhân:

Chẳng được như hoa vướng gót nàng ,
Cõi lòng man- mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương

(Thái-Can)

Nhưng sự biệt-ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ-nhung quằn-quại triền-miên cũng như sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là những dòng thơ nức-nở lệ nhòa
của nữ thi- sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài thơ bất-hủ ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi-ca Việt-nam. Ta hãy nghe nhà thơ T.T.KH nức-nở
những điệp-khúc tình thu sau đây:

Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu !.

hay là:

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái-ân lạt-lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người
.

Tóm lại qua thi-ca Việt-nam, ta thấy hầu hết các thi-nhân nước Việt đều nói đến mùa thu, ca ngợi mùa thu vì mùa thu có những đêm trăng mờ ảo, có những lá vàng rơi tuyệt đẹp, có những giọt mưa thu thánh thót rơi thật lâm-ly, bi-thảm vv…Và cũng vì mùa thu là mùa của ngăn-cách, của ly-biệt ,là mùa của nức-nở nghẹn-ngào nên các thi-nhân Việt-nam không ai mà không xúc-động khi thấy mùa thu đến. Vì vậy, qua thi-ca Việt-nam, ta thấy nhiều nhà thơ đã để lại cho đời những bài thơ trữ-tình bất-hủ về mùa thu.

Dương Viết Điền