Khảo Luận về cụ Phan Thanh Giản
-
Sưu Tầm:
Nguyễn Hữu Cường -
Chương
1
Khi nhận định giá trị thật sự của một con vật hay
một đồ vật vô tri người ta thường căn cứ trên những
lợi ích mà con vật hay món đồ vật đó mang đến cho
con người. Người ta đánh giá trước khi mua về để
dùng và sự đánh giá thường hay căn cứ theo lời quảng
cáo của nhà sản xuất ra các món đồ vật hay của nhà
nuôi thú để bán. Sự đánh giá về đồ vật hay con vật
cũng được thực hiện theo những lời đồn đãi của quần
chúng hoặc theo sự giới thiệu của người đã có kinh
nghiệm xài qua hay đã từng là sở hữu chủ các vật
đó. Món đồ vật hay con vật sau khi mua về tạo được
lợi ích thì sẽ được người mua nâng niu châm sóc
cẩn thận để có thể xử dụng lâu dài và khi món đồ
vật đã xài lâu năm bị hao mòn hay đã trở thành lạc
hậu thì người chủ phải quyết định bỏ đi nhưng lòng
vẫn luyến tiếc không nở dứt bỏ và có thể là món
đồ vật nầy sẽ được lưu giữ lại để trở thành một
món đồ cổ đầy kỷ niệm được giữ lại cho hậu sinh
trong gia tộc chiêm ngưỡng.
Đánh giá về một con người là một tiến trình phức
tạp, tế nhị và khúc mắc. Tại sao? Bởi vì con người
cũng là một con vật, nhưng là một con vật có một
khối óc biết suy nghĩ và một con tim đầy ấp tình
cảm. Vì có con tim đầy tình cảm cho nên rất khó
cho một con người nầy phê phán, đánh giá khách quan
một con người khác bởi vì tình cảm con người bị
quá nhiều yếu tố ngoại lai ảnh hưởng hoặc chi phối
cho nên dễ rơi xuống gần với loài động vật tuy rằng
có bộ óc nhưng chỉ biết hành động theo phản xạ chứ
không biết suy nghĩ chính chắn khách quan hoặc bị
cản trở không cho phép suy nghĩ theo đúng với lý
trí của mình.
Đánh giá một con người lịch sử lại càng khó hơn
bởi vì con người lịch sử thông thường đã thuộc về
quá khứ lâu đời, là một thành viên trong một bối
cảnh lịch sử nào đó đã qua đi và từ xưa đến nay
hầu hết các bối cảnh lịch sử thực tế đều do guồng
máy thống trị đất nước mặc tình thao túng muốn thêu
dệt, bẻ méo cách nào cũng được qua các văn kiện,
tài liệu, sách vỡ, phương tiện truyền thông, chiến
dịch đồn miệng truyền tai núp, lợi dụng lòng mê
tín dị đoan của người dân chất phát ít học để thần
thánh hóa một triều đại hay để quảng cáo cho một
lãnh tụ, tất cả đều núp dưới mỹ từ lịch sử hoặc
dã sử. Đầu óc địa phương, bè phái, mặc cảm tự tôn
cũng là những yếu tố khiến cho việc đánh giá một
con người lịch sử mất đi tính cách công tâm và khách
quan.
Dĩ nhiên là khi đánh giá một nhân vật lịch sử thì
không thể nào tách nhân vật nầy ra khỏi bối cảnh
lịch sử cụ thể thực sự vào thời đó - một bối cảnh
lịch sử thực sự chứ không phải một bối cảnh bịa
đặt- với những mối dây liên hệ trói buộc phức tạp
trên mọi lãnh vực xã hội, văn hóa, gia đình, môi
trường hoạt động và đường lối phát triển đất nước
so với xu hướng phát triển chung của thế giới đang
được bành trướng khắp nơi vào thời điểm đó.
Từ xưa đến nay, dư luận đánh giá một nhân vật lịch
sử thường có mục đích để tôn vinh hoặc để kết tội
nhân vật lịch sử đó. Khi đánh giá tôn vinh thì tốt
khoe xấu che, cái tốt của nhân vật được đề cập tới
nhiều hơn và thường thì lại bày đặt thêm thắt, đánh
bóng, thổi phòng để biến nhân vật nầy thành một
ông thánh sống vô nhiễm mọi tội lỗi, thành một nhà
hiền triết khôn ngoan sáng suốt đứng trên hết mọi
người. Khi đánh giá kết tội thì xấu bêu tốt lờ mà
mục tiêu của việc đánh giá bêu xấu là để che tội
cho một kẻ khác, biến kẻ bị bêu xấu thành một con
vật hy sinh tế thần. Nhiều khi người bị bêu xấu
vô tội, cái tội của họ là do kẻ có tội thật sự vì
muốn che dấu khuất lấp tội lỗi xấu xa của mình cho
nên đã đổ hết tội lỗi lên đầu người khác. Nhiều
khi người bị bêu xấu không có tội tình gì nhưng
vì hoàn cảnh phải ở về cùng một phía của những kẻ
bị xem là có tội cho nên phải chịu họa lây mặc dù
kẻ đứng ra kết tội dư sức biết rõ người đó bị kết
tội một cách bất công thay vì được nghiêm xét một
cách vô tư và đáng được vinh danh.
Lại cũng có những cung cách đánh giá tùy thời, gió
chiều nào theo chiều đó. Kiểu đánh giá tiền hậu
bất nhứt như thế sẽ khiến cho mọi người mất tin
tưởng và dù sau nầy việc đánh giá có đúng sự thật
một trăm phần trăm đi chăng nữa thì cũng chỉ giống
như nước đổ đầu vịt bởi vì một lần bất tín thì vạn
sự bất tin.
Đối với những nhân vật lịch sử có thành tích lẫy
lừng vang dội, thành tích tốt cũng như thành tích
xấu, thì sự đánh giá có thể là dễ dàng nhưng cũng
chưa chắc là khách quan vô tư đầy đủ nhưng không
phải vì có nhiều đánh giá tiếp theo sau đó có cùng
một quan điểm mà vội cho là đã nhất trí.
Có những nhân vật lịch sử xuất hiện trong một bối
cảnh phức tạp biến động, dẫy đầy thử thách và mâu
thuẫn, xô đẩy nhân vật nầy vào con đường bế tắc
không biết phải hành động thế nào cho phù hợp với
lý trí đưa đến tình trạng thực hành những điều trái
với lương tâm của mình. Đối với những nhân vật lịch
sử nầy từ trước đến nay người ta thường chỉ đánh
giá một chiều theo những chứng cớ che lắp, đầy dẫy
hậu ý bất công và đây cũng là trường hợp của một
số đông nếu không nói là hầu hết những nhân vật
của miền Nam Việt Nam có tên trong lịch sử kể từ
thời hoàng đế Gia Long đến nay mà trong số những
nhân vật nầy, hoàng đế Gia Long và ông Phan Thanh
Giản là những trường hợp điển hình hơn hết.
Việc đánh giá và phê phán ông Phan Thanh Giản không
phải chỉ xảy ra sau cái chết tự xử của ông vào năm
1867 mà nó đã xảy ra ngay trong lúc ông còn sinh
tiền, đặc biệt là vào lúc thế lực thực dân thuộc
địa từ phương Tây bắt đầu dòm ngó vào vùng đất hình
cong chữ S của nước Đại Nam.
Chương
2
NHỮNG NGUYÊN DO CHỦ YẾU
TRONG CUỘC CHIẾN XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀ SỰ THẤT BẠI
CỦA TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN TRONG VIỆC CHỐNG NGOẠI XÂM ĐỂ
GIỮ NƯỚC
Từ thế kỷ thứ XIX, một nước ĐẠI VƯƠNG QUỐC VIỆT NAM được
hình thành khi triều đại họ Nguyễn được khai sáng, và
hoàng đế Gia Long đã đặt nền móng để tạo dựng đất nước
Việt Nam thành một quốc gia tiên tiến. Tất cả các cơ cấu
trong guồng máy cai trị của hoàng đế đều được cải tổ và
đã hoạt động tích cực để phát triển theo đà tiến bộ của
nền văn minh và kỳ thuật thế giới. Luật lệ được đổi mới
để thay thế cho các luật lệ già nua lỗi thời từ niên hiệu
Hồng Đức dưới triều đại của vua Lê Thánh Tông trong thế
kỷ thứ XV. (Có dư luận cho rằng bộ luật Gia Long chỉ bắt
chước theo bộ luật của nhà Thanh ở Trung Quốc thua xa
bộ luật Hồng Đức. Nếu xét cho cùng, nền cổ luật từ thời
Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần và Hậu Lê, tất cả đều bắt chước
theo các luật lệ của Trung Quốc. Có một điều ngạc nhiên
là, khi sơ khởi thiết lập guồng máy hành chánh cai trị,
Charner đã không dám đem áp dụng ngay luật lệ của nước
Pháp tại các vùng đất của Đại Nam mà Pháp vừa mới chiếm
được nhưng lại phải lục lạo tìm kiếm cho bằng được bộ
luật Gia Long để phiên dịch ra tiếng Pháp và phổ biến
ngay cho các chức quyền hành chánh của họ áp dụng kèm
theo chỉ thị phải theo luật lệ và phong tục của người
Đại Nam trong việc cai trị làng nước).
Những công trình như cầu cống, đường xá, sông ngòi,
kênh rạch, đê đập, kho lẫm, bến cảng, thành trì, tất
cả đều được thực hiện một cách quy mô liên tục, đạt
được thành quả rất tốt và có giá trị lâu bền. Các định
chế về tổ chức quân đội, giáo dục, tài chánh cũng được
đổi mới. Chính người Pháp phải công nhận rằng nước Việt
Nam dưới thời Gia Long đã tiến xa hơn nước Nhật Bản
đến 60 năm và trở thành một trong những cường quốc quân
sự trong vùng bán đảo Đông Dương. Chỉ người ngoại quốc
Âu châu nào có năng lực mới được hoàng đế Gia Long tuyển
chọn để phục vụ như những kẻ đi làm thuê trong các công
trình canh tân xứ sở Việt Nam.
Năm 1817, khi tàu buôn đầu tiên của Pháp đến xin giao
thương, hoàng đế Gia Long đã chấp thuận nhưng vẫn dành
chủ quyền cho nước Việt Nam trong việc ấn định thể thức
giao thương và quyền lựa chọn các mặt hàng hóa xuất
nhập.
Chính sách đế quốc thuộc địa của người Anh ép đặt vào
Singapore năm 1819 khiến cho hoàng đế Gia Long nghi
ngờ và mất tin tưởng vào thiện ý của người ngoại quốc
gốc Âu Châu, vì thế trước khi qua đời , năm 1820, hoàng
đế Gia Long đã trối lại cho hoàng đế Minh Mạng nên đối
xử tốt đẹp với người Âu Châu, đặc biệt là đối với người
Pháp nhưng tuyệt đối không để họ tạo ảnh hưởng để xen
lấn vào nội tình của nước Việt Nam. Đối với Minh Mạng
thì lời trối của Gia Long còn chưa đủ bởi vì dưới triều
đại Minh Mạng, chính sách bất hợp tác với ngoại bang
Âu Châu được áp dụng một cách cứng rắn, triệt đễ và
quay về với truyền thống vọng Trung Quốc của nước Việt
Nam từ ngàn xưa. Thiệu Trị nối nghiệp, tiếp tục theo
đường hướng cai trị của vua cha rồi nay đến Tự Đức cũng
thế. Kế đến chiến tranh giữa người Anh và người Miến
Điện xảy ra vào năm 1826 càng khiến cho những con cháu
nối nghiệp của Gia Long thêm lo âu nghi ngại và họ càng
hướng về mẫu mực văn hóa, đạo đức của Trung Quốc dùng
làm kim chỉ Nam để giữ và xây dựng đất nước Đại Nam.
Họ là những nhà cai trị giỏi nhưng Minh Mạng nổi bật,
chỉ kém thua vua cha Gia Long mà thôi.
Quyền lực chính trị tập trung vào tay của hoàng đế
; không có một quyền lực trung gian; quan lại triều
đình chỉ là công cụ thi hành quyền lực của hoàng đế.
Tất cả người dân trong nước đều được coi như là bình
đẳng, là tôi thần của vua, được thưởng hay chịu phạt
ngang nhau theo một chế độ luật pháp duy nhất. Không
có một ngạch quan quân sự riêng mà cũng không có sự
phân cách giữa quyền lực quân sự và quyền lực hành chánh:
quan đứng đầu cai trị một vùng lãnh thổ cũng là tư lệnh
quân sự cao cấp tại vùng đó nhưng không phải vì thế
mà được hưởng cấp bổng gắp đôi.
Quan lại được tuyển chọn trong các tầng lớp dân chúng
lương thiện, không phân biệt nghèo giàu, qua các khoá
thi định kỳ được tổ chức tại các tỉnh thành quan trọng
và chỉ có một số ít thí sinh thật xuất sắc mới được
chấm đỗ và ban cho ngạch trật quan lại tương ứng với
thứ bật đỗ cao thấp của họ. Người ngoại quốc nào sau
khi được tiếp xúc với các hàng quan lại Việt Nam đều
đồng ý rằng họ là những người tài trí hiểu biết, có
giáo dục, có kỹ luật và đức hạnh. Trước khi người Pháp
xâm lăng, Việt Nam được xem như là một quốc gia có giáo
giục qua các dụ chỉ giáo huấn của nhà vua ban ra. Nho
học và đạo đức thánh hiền được phổ biến rộng rãi trong
dân chúng bởi các cơ quan giáo dục của triều đình hoặc
từ các quan chức đã về hưu mở trường dạy học. Nền giáo
dục đó đã tạo ra một mối liên hệ đồng nhất gắn bó trong
nếp nghĩ suy và hành động của tuyệt đại đa số tầng lớp
người dân trong nước. Tầng lớp Nho sĩ, những người dân
có học cao - những người "quân tử" - là tầng
lớp chỉ đạo và vua, vì là con của Trời, thay Trời hành
đạo để tạo phúc lợi cho nhân gian cho nên vua được xem
như là người quân tử tối cao với quyền hành tuyệt đối
vô giới hạn và không thể bị lầm lẫn. Người dân trong
nước được xem như là con cái của vua. Là phận con cái
cho nên mọi người dân trong nước đều phải lấy chữ trung
hiếu làm đầu. Nếu vua lầm lẫn, ăn ở mất nhân đức thì
chỉ có Trời biết để trừng phạt vua bằng các hình phạt
tai ương, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh, giặc
giã đổ xuống trên đầu trên cổ "con cái" của
vua. Nếu tai ương kéo dài khiến đa số dân chúng bị khổ
đau triền miên thì vua đương nhiệm bị xem như là hôn
quân, bạo chúa không đạo đức, sẽ dẫn đến các phong trào
nổi dậy và bạo loạn trong nước.
Trong việc cai trị, các vua nhà Nguyễn lựa chọn những
quan đại thần để làm cố vấn chính trị và an ninh trong
một cơ quan gọi là viện Cơ Mật cùng với các cơ quan
hành pháp và tư pháp trung ương, tất cả gộp lại để tạo
thành một cơ quan quyền lực trung ương tối cao, tức
triều đình Huế. Tất cả những chính sách và đường lối
trong việc cai trị đều được vua hỏi ý kiến của triều
đình nhưng quyền quyết định cuối cùng luôn luôn là của
nhà vua.
Ở bậc thang cuối cùng của hình thức tổ chức quyền lực
nước Đại Nam có một đơn vị hành chánh gọi là làng. Mặc
dù ở vào một vị thế thấp nhất nhưng làng lại là một
thế giới riêng biệt: phép vua thua lệ làng; mỗi làng
có những tục lệ, phong tục, tập quán riêng biệt. Người
dân ít khi chịu rời khỏi làng mình đang sinh sống để
đi nơi khác bất kể làng của họ bé nhỏ hay rộng lớn.
Những nề nếp sinh hoạt trong làng như việc phân chia
ruộng công, thực hiện các công trình nông nghiệp, tổ
chức hành chánh, giải quyết các vụ tranh tụng nhỏ trong
những mối liên hệ ràng buộc của những hộ khẩu trong
làng, việc phòng giữ cảnh vệ làng xóm chống trộm cướp,
tất cả những định chế đó đều được tổ chức một cách biệt
lập không có sự can dự của những kẻ ngoại lai không
có hộ khẩu trong làng. Dân làng chọn lựa những người
có uy tín và nhũng người "sống lâu lên lão làng"
để lập thành những ngôi thứ cho những người đứng đầu
nắm quyền cai quản xóm làng. Nhân vật nắm giữ việc điều
hành guồng máy hành chánh tự trị trong làng là lý trưởng
do hội đồng đó chỉ định và tất cả những người nầy lập
thành một tập thể hành chánh quản trị của làng. Nhà
vua và các quan triều chỉ công nhận tập thể này như
là những người đại diện tuyệt đối cho toàn thể cá nhân
sống trong làng. Có thể nói rằng uy quyền của nhà vua
và triều đình không thể lọt qua khỏi cổng làng bởi vì
chính cái xã hội thu nhỏ nầy được hưởng một chính sách
tự trị khá rộng rãi để tự mình tổ chức các cách thức
giữ gìn an ninh và xây dựng làng mạc của mình với điều
kiện là phải nộp thuế cho ngân khố của triều đình: triều
đình ấn định mức thuế cho từng làng và mức thuế nầy
sẽ do hội đồng quản trị của làng phân định cho mỗi người
dân trong làng đóng nộp.
Mặc dù hoàng đế làm chủ đất nước nhưng trên thực tế
ruộng vườn trong làng mặc nhiên xem như là được hoàng
đế cấp phát cho người dân trong làng làm chủ vĩnh viễn,
chính người dân trong làng mới chính là sở hữu chủ đích
thực được hoàng đế và triều đình công nhận nếu chịu
nộp thuế và thi hành những nghĩa vụ do triều đình yêu
cầu. Luật Gia Long ghi: <<Các gia đình của mỗi
châu, huyện chia nhau ruộng đất, lập sổ thuế và tất
cả cùng nhau cai quản việc công sở tại>> (Nguyễn
Văn Huyền, La Civilisation Annamite, [Văn Minh Việt
Nam]; bản dịch; trang 564; Hà Nội; 1996). Có thể nói
rằng làng là biểu hiện của một hình thức dân chủ sơ
khởi của tổ chức hành chánh công quyền trong suốt tiến
trình lịch sử xây dựng nước Việt Nam. Tính cách tự trị
của ngôi làng đã làm nẩy nở một tình trạng tâm lý đặc
biệt là người dân trong làng cảm thấy rằng quyền tự
do cá nhân của mình hầu như tách rời khỏi quyền lực
của các tổ chức cai trị thuộc chính quyền trung ương.
Người dân Việt Nam ngày xưa thường rất hãnh diện và
cảm thấy danh dự vì mình xuất phát từ một làng quê ở
một tỉnh nhỏ bởi vì dưới mắt của mọi người khác họ không
bị khinh thị là kẻ trôi sông lạc chợ, người tứ xứ. Làng
không phải chỉ gồm có những người hiện cư trú ở đó mà
bao gồm cả những người có gốc tích từ làng mà ra và
vẫn được xem là dân làng mặc dù chỉ trở về làng một
vài lần trong đời. Dân làng có thể sinh sống ở một vùng
khác nhưng bao giờ ngôi làng cũ vẫn là "quê mẹ"
của họ và vẫn tiếp tục nộp thuế thân ở làng, đóng góp
vật chất hoặc tinh thần cho làng mặc dù họ không được
hưởng những lợi lộc vật chất, con cái họ sinh ở nơi
khác nhưng họ lại muốn đăng ký tên của đứa con ở làng
cũ. Nhiều trường hợp người của một làng cũ cố gắng thu
xếp một góc nhỏ ở làng để cất lên một gian nhà lá đơn
sơ dùng làm nơi kê bàn thờ tổ tiên.
Có những làng đầu tiên được lập nên bởi một gia đình,
người trong gia đình, cùng với sự trợ lực của một số
người lao động đi theo, cật lực phá rừng, khai khẩn
đất hoang và mở rộng đất đai rồi nếp sống tập thể lần
lần được tổ chức theo hình thức những làng mạc khác.
Khi số dân tăng, tập thể mới nầy có thể xin chính quyền
trung ương cho phép lập thành một làng mới gọi là xin
tách rời con dấu biệt triện. Có khi một người hoặc một
nhóm người đứng ra xin được quyền làm chủ các đất đai
bị bỏ hoang để lập thành một làng mới nhưng phải cam
kết đóng thuế ruộng đất cho chính quyền trung ương sau
khi khai khẩn đất hoang đã được tiến hành mọt thời gian
nhất định. Triều đình nhà Nguyễn khuyến khích những
vụ khẩn hoang kiểu nầy để mở rộng phạm vi cày cấy cho
đất nước. Người dân hoàn toàn tự do lựa chọn khai khẩn
bất, lạp thành làng mạc bất cứ vùng đất hoang nào mà
họ cho là tốt và sau đó chỉ cần báo trình với quan để
trở thành sở hữu chủ.
Chương
3
Sau khi tái chiếm các vùng đất ở Nam Kỳ vào những năm
cuối thế kỷ 17, Nguyễn vương Phúc Ánh liền cho lập ngay
những làng mạc mới. Tất cả hạng dân, binh và nhất là
người dân nghèo đều phải cày cấy, làm ruộng. Nhiều dân
ở các vùng khác nhau được chiêu mộ để đi khẩn hoang
lập ấp gọi là điền tốt đặt dưới quyền điều khiển của
một viên quan triều đình gọi là Điền tuấn quan. Những
điền tốt đi khai hoang được nhà nước cấp cho trâu bò,
nông cụ nhưng phí tổn cho việc cung cấp nầy phải được
trả lại cho chính quyền bằng cách nộp một số hoa màu,
gạo thóc vào những mùa gặt hái. Ở những chốn rừng sâu,
những người đi khai hoang được tổ chức thành những trại
nông nghiệp gọi là đồn điền trong đó có những nhóm gọi
là toán hoặc đội đồn điền. Người nào có công tuyển mộ
được nhiều điền tốt từ 5 người trở lên thì được cho
giữ chức cai trại, được miễn thuế thân và khỏi phải
làm việc nặng lao nhọc.
Như vậy, làng là một tổ chức cộng đồng thực sự, là kiểu
mẫu của một đại gia đình nới rộng mà quyền lực của giới
hữu trách trong làng cũng tương tựa như quyền lực của
người cha trong từng gia đình riêng rẽ.
Trong thực tế, định chế tổ chức gia đình Việt Nam từ
lâu đời đã rập khuôn theo lối tổ chức của người Trung
Quốc và vẫn không thay đổi cho tới khi có sự xuất hiện
của người Âu Châu. Khuôn mẫu gia đình nầy tương tựa
như khuôn mẫu đại gia đình thời cổ của người La Mã.
Đại gia đình rất đông đúc trong đó người cha có một
quyền uy rộng lớn nếu không nói là áp đảo "ăn hiếp"
tất cả mọi thành viên trong nhà, bao lâu người cha còn
sống thì kẻ dưới dù thuộc hàng con, hàng cháu đều phải
phục tùng nhất là khi người cha nầy là đích tôn, trưởng
tộc.
Trước thời đại Gia Long, quyền gia trưởng của người
cha là tuyệt đối, toàn quyền quản lý tài sản của gia
đình mình, vợ và con phải đóng góp thêm cho tài sản
của gia đình, phần đóng góp của họ không được cất riêng.
Có rất nhiều trường hợp người cha đã xử dụng quyền gia
trưởng của mình để bán vợ, đợ con và thậm chí có toàn
quyền sinh sát vợ, con. Ông có quyền tuyệt đối trong
quyết định kén dâu, chọn rể và tổ chức hôn lễ cho con
cái. Có thể nói, địa vị của người cha trong gia đình
kể từ thời Hậu Lê trở về trước là địa vị của một ông
vua con, một kẻ chuyên chế tuyệt đối trong nhà mình.
Khi người con đầu lòng của người cha được sinh ra là
con trai thì đứa con nầy được coi là "thái tử"
nối nghiệp. Nếu trong nhà chỉ toàn là con gái và đứa
em út mới sinh lại là con trai thì đứa em trai miệng
còn hôi sửa nầy sẽ là ông vua con trong gia đình nếu
người cha chết đi trước khi cậu út nầy biết bò, biết
đứng. Ngoài ông vua con trong gia đình, còn có một ông
"thái thượng hoàng" tức là ông nội hoặc ông
cố nội hoặc ông "trưởng tộc" luôn để mắt theo
dõi người mẹ góa trong việc tạm thời coi sóc đứa con
trai nối nghiệp và đảm nhiệm việc quản lý tài sản của
gia đình. Thân phận của người mẹ và những người con
gái trong gia đình bị coi nhẹ nếu không nói là bị bỏ
quên.
Luật Gia Long giới hạn quyền của người gia trưởng:
phạt 100 trượng người cha nào đánh chết con. Kẻ nào
bán hay cho thuê vợ thì bị phạt 80 trượng.
Dân luật 1931 ở miền Bắc Việt Nam và dân luật 1936 ở
miền Trung Việt Nam vẫn tiếp tục ấn định rằng con và
cháu sống với cha mẹ hay ông bà thì phải hoàn toàn phụ
thuộc vào người chủ gia đình. Con cái không được đi
khỏi nhà của người cha nếu không được người cha cho
phép. Vì đạo hiếu, cho nên con cháu không được thưa
kiện cha mẹ hoặc ông bà. Tuy nhiên, theo luật pháp mới
cha mẹ không có quyền cho thuê con cái của mình hay
gán con để trả nợ nhưng cha mẹ bao giờ cũng có thể cho
con cái vị thành niên còn ở dưới quyền của mình được
đi làm thuê trong một thời hạn nhất định. Quyền cha
mẹ trừng phạt con cái từ đây chỉ có thẻ được thực hiện
trong những giới hạn cần thiết để duy trì quyền lực
của người cha.
Cuộc Nam tiến của người Việt Nam không phải lúc nào
cũng bằng phương cách hòa bình. Nói như thế không có
nghĩa là người Việt Nam chỉ biết dùng bạo lực để nới
rộng thêm lãnh thổ của mình mà phải nói rằng người Việt
Nam là những người khôn ngoan và có bản lĩnh trong chính
sách di dân chiếm đất: Từ khi bắt đầu đi về phía Nam
cho đến năm 1689 thì di dân Việt Nam ở vùng Sài Gòn
- Gia Định chỉ có khoảng trên dưới 10,000 người. Khi
người Pháp bắt đầu xâm lăng chiếm Gia Định vào năm 1861
thì dân số người Việt Nam chính gốc có vào khoảng 2
triệu người và vùng đồng bằng sông Cửu Long nguyên trước
kia là một vùng đầm lầy hoang địa của người Cao Miên
thì nay trở thành vựa lúa phì nhiêu của triều đình nước
Đại Nam.
Thói thường, dư luận cho rằng người Cao Miên ở Nam
Kỳ bị người Đại Nam tàn sát để chiếm đất . Đây là một
dư luận thiên vị nhằm mục đích gầy hận thù sắc tộc.
Trên thực tế, một phần người Cao Miên chịu đồng hóa
và chung sống một cách rất hài hòa với người Việt Nam,
một phần khác không chịu chung sống với người mới đến
nên tự ý bỏ đi nơi khác, ở những nơi không có sự hiên
diện của người Việt Nam.
Tuy nhiên, người Việt Nam ở Nam Kỳ không phải luôn
luôn giữ được bản chất thuần chủng Việt tộc của mình
mà họ cũng chịu ảnh hưởng của một sự đồng hóa ngược
chiều từ các sắc tộc,-"những người chủ cũ của vùng
đất Nam Kỳ", khiến cho người Việt Nam ở Nam Kỳ
càng lúc càng có rất nhiều nét khác biệt với người Việt
Nam ở Bắc Kỳ nếu không nói là khác biệt hoàn toàn: vóc
dáng người Nam Kỳ cao hơn, giọng nói cũng khác đi, tánh
tình thuần hậu, chân chất, cởi mở, cầu tiến hơn là người
Bắc Kỳ nhưng siêng năng, cần cù thì không bằng. Làng
mạc trong miền Nam không có nhiều dấu vết kỷ niệm của
tổ tiên và thần thánh để có thể giữ chân người dân làng
từ đời nầy qua đời khác giống như ở miền Bắc.
Qua nhiều biến chuyển lịch sử, nước Cao Miên ở phía
Nam và các nước thuộc bộ tộc Lào ở phía Tây Bắc trở
thành những nước hàng rào và dưới quyền kiểm soát của
triều đình Đại Nam. Các lãnh thổ của các bộ tộc thiểu
số miền cao nguyên Trung Kỳ hoàn toàn thần phục dưới
chế độ cai trị của triều đình Huế. Trung tâm quyền lực
được di chuyển về phía Nam và thủ đô của nước Việt Nam
không còn là Thăng Long- Hà Nội nữa nhưng lại là Phú
Xuân-Huế, tạo thành một hố cách biệt tình cảm giữa hai
miền Bắc - Nam nhất là đối với những thành phần tự tôn
mặc cảm cố vọng về nhà Hậu Lê, không thật lòng chịu
phục nhà Nguyễn. Thêm vào đó, nhà Nguyễn chú trọng khai
phá, phát triển vùng đất Nam Kỳ khiến cho người dân
Bắc Kỳ cảm thấy như mình bị triều đình lơ là bỏ rơi
và như vậy có nghĩa là nhà Nguyễn không thể nào chiếm
được lòng dân người miền Bắc trong việc phát triển xây
dựng nước và giữ gìn lãnh thổ nhất là các vùng đất biên
giới Việt Nam - Trung Quốc; ngay cả những người miền
Bắc đã di cư vào sinh sống ở miền Nam qua nhiều đời
cũng không trung thành với nhà Nguyễn. Rốt cuộc rồi,
nhà Nguyễn chỉ còn có thể trông cậy vào sự chung thủy
của người dân từ Thuận Hóa trở vào đến Quảng Nam, ngoài
ra thì chung quanh toàn là những kẻ phục tùng bất đắc
dĩ, là những "kẻ nội thù" chỉ chờ thời cơ
để phản lại nhà Nguyễn.
Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ thứ 19 không bị lâm vào
tình cảnh khốn đốn so với các nước Á Châu khác nhưng
lại có một ung nhọt bất trị là "mê ngủ", chỉ
biết có Trung Quốc là mẫu mực: các kỹ thuật nông nghiệp,
kỹ nghệ, y học, tất cả đều mục nát, thoái hóa vậy mà
Việt Nam vẫn tiếp tục noi theo. Nền ngoại thương bắt
đầu khởi sắc dưới triều đại Minh Mạng nhưng rồi lại
thụt lùi vì chính sách bế quan, tỏa cảng của triều đại
Thiệu Trị và Tự Đức. Các kỹ thuật tân tiến của Tây phương
trước kia được Gia Long và Minh Mạng chú trọng áp dụng
trong việc phát triển tiềm năng quân sự và kinh tế thì
nay lại bị chìm trong quên lãng để quay về với mớ lý
thuyết mơ hồ, vô dụng của nền Khổng học cũ rít đến mức
độ Tự Đức phải lên tiếng thức tỉnh đoàn ngũ Nho thần
lơ láo của mình.
Nho giáo được nhà Nguyễn ưu đãi làm mất lòng Phật giáo.
Chính sách bách hại những người theo đạo Gia tô dù rằng
để ngăn ngừa người trong nhà nối giáo cho giặc ngoại
xâm nhưng cũng là một cái cớ để kẻ ngoại quốc kiếm chuyện
gây hấn.
Có thể tóm tắt mà nói rằng, nước Đại Nam dưới triều
đại Tự Đức đã bị bao vây tứ phía, từ bên trong ra tới
bên ngoài
Chương
4
PHAN THANH GIẢN (1796-1867)
Tự là Tĩnh Bá và Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu
là Mai Xuyên, người xã Bảo Thạnh, Bảo An, trấn Vĩnh
Thanh (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre trước năn 1975), đỗ
tiến sĩ vào niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), trải qua
3 đời hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, chức quan
cao Hiệp Biện Đại Học Sĩ . Năm 1862 được cử làm trưởng
đoàn thương thuyết và ký hoà ước Nhâm Tuất với đoàn
quân xâm lược Pháp ở Sài Gòn. Năm 1863 được cử làm khâm
mạng đại thần chánh sứ sang nước Pháp để điều đình hủy
bỏ hòa ước Nhâm Tuất (1862) và chuộc lại 3 tỉnh miền
Đông Nam Kỳ của nước Đại Nam đang bị mất vào tay đoàn
quân xâm lược Pháp.
Năm 1864 thương thuyết với đặc sứ Pháp Aubaret về việc
hủy bỏ hòa ước Nhâm Tuất 1862 để ký kết một hoà ước
mới (thường gọi là hòa ước Aubaret 1864) nhưng vì Tự
Đức và triều đình Huế cứ tiếp tục chính sách trả giá
kéo dài thời gian thương lượng để chờ thời cơ phản công
đánh chiếm lại các tỉnh bằng võ lực. Cùng một lúc, dư
luận Pháp, chính phủ Pháp đã đổi ý ngả theo chủ trương
chiếm đất làm thuộc địa của nhóm chính quyền quân nhân
của họ ở Sài Gòn cho nên họ đã yêu cầu Aubaret ngưng
thương thuyết, tuyên bố không có hoà ước 1864, hoà ước
Nhâm Tuất 1862 đã được hai nước phê chuẩn có hiệu lực
chấp hành.
Nhóm quân phiệt Pháp ở Sài Gòn chuẩn bị gây hấn. Phan
Thanh Giản lại được giao trọng trách Kinh lược sứ 3
tỉnh miền Tây Nam Kỳ để đối phó. Năm 1867, quân binh
và tàu chiến của đoàn quân xâm lược Pháp kéo xuống miền
Tây, bao vây tỉnh thành Vĩnh Long. Từ soái hạm l' Ondine,
đề đốc La Grandière cử người đưa thư buộc nộp thành.
Sau khi viết thư yêu cầu La Grandière ra lệnh cho đoàn
quân xâm lược Pháp không được nhiễu hại dân chúng và
sau khi để lại lời trối cho con cháu không được hợp
tác với người Pháp, ông ra lệnh quan binh dưới quyền
ngưng chống cự, rồi nhịn đói, uống độc dược tự xử.
*Năm 1856 Ông được cử nhận lãnh chức Tổng Tài để trông
coi việc biên soạn bộ sử Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục.
*Ông là tác giả của tập Lương Khê Thi Văn Thảo.
Đi sứ nước Pháp
Chín tầng lồng lộng
giữa trời thinh,
Phụng chỉ ra đi buổi sứ trình.
Lo nỗi nước kia còn phiến biến,
Thương bề dân nọ cuộc giao chinh.
Nghìn trùng biển cả sang tây địa,
Muôn dặm đường xa thẳng đế kinh.
Mây nước sang qua cùng Pháp quốc,
Rước đưa mừng rỡ cuộc hòa minh.
*
Tuyệt cốc (1)
Trời thời, đất lợi,
lại người hòa,
Há để ngồi coi phải nói ra.
Lăm trả ơn vua, đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng, ruổi đường xa.
Lên ghềnh xuống thác, thương con trẻ,
Vượt biển trèo non, cám phận già.
Cũng tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba (2)
.
(Dương Quảng Hàm, Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển,
Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn 1968)
(1) Tuyệt cốc: không ăn thóc, nhịn đói.
(2) Ba tỉnh lại chầu ba: chầu có nghĩa là thêm
vào. Có ý nói rằng quân xâm lược đã được 3 tỉnh
miền Đông bây giờ lại đánh chiếm thêm 3 tỉnh miền
Tây.
|
|
Chương
5
CUỘC ĐỜI NGOẠI GIAO CỦA
ÔNG PHAN THANH GIẢN
Cuộc đời ngoại giao của ông Phan Thanh Giản khởi đầu
kể từ khi đoàn quân viễn chinh Pháp-Tây Ban Nha đánh
bại tướng tài ba của nước Đại Nam Nguyễn Tri Phương
nơi chiến lũy Kỳ Hoà và sau khi viên khâm sai đại thần
Nguyễn Bá Nghi được triều đình Tự Đức ở Huế trao cho
toàn quyền đối phó với người Pháp.
Thay vì tiếp tục dùng giải pháp quân sự để kháng cự
thì Nguyễn Bá Nghi lại áp dụng kế hoãn binh (ĐTLCB,
đệ tứ kỷ III, quyển XXIV, trang 208, bản dịch, Hà Nội)
sai người đi cầu hòa thương luợng với Charner trên chiến
hạm Primaugel đậu trên sông Sài Gòn. Từ lúc bắt đầu
thương thảo về những điều kiện do kẻ địch đưa ra để
ngưng chiến và tái lập hòa bình, Nguyễn Bá Nghi không
những không chấp nhận những điều kiện đó mà còn trao
thơ trách cứ cho rằng những đòi hỏi của người Pháp chỉ
có lợi cho nước Pháp và có hại cho nước Đại Nam mà thôi
và người Pháp A. Schreiner đã đưa ra một sự phê phán
rằng: "Những người An Nam đi thương thuyết họ đã
quên một hệ quả cốt yếu của chiến tranh là kẻ chiến
bại không được phép đòi hỏi lợi lộc." (Le négociateur
annamite feignait ignorer une conséquence essentielle
de la guerre, que le vaincu ne saurait reclaimer des
avantages) (A.Schreiner, Abrégé de l' Histoire d' Annam,
trang, 207, 208, nhà xuất bản Chez l'Auteur, Sài Gòn,
1906).
Ngày 26 tháng 4 dl năm 1861 Charner thư hồi đáp cho
Nguyễn Bá Nghi như sau:
-"Rằng, nếu hoà ước được ký kết, nền ngoại thương
của người An Nam, vốn đã bị tiêu hại vì sự phong tỏa
của những tàu tuần tra thì nay đã lấy lại được sự giao
lưu một cách tự do, rằng với sự thực hiện cơ sở của
người Pháp ở Sài Gòn và Mỹ Tho thì sự thịnh vượng của
miền Nam Kỳ hạ sẽ được phát triễn cao hơn là trước khi
có chiến tranh xảy ra, rằng, thay vì gây khốn khó thì
trong nhiều tình huống, nước Pháp có thể yểm trợ hậu
thuẫn cho triều đình Huế. Khi chuyển đến quan ngài phòng
biên quân thứ những nhận định nầy, bản chức mong rằng
sẽ hân hạnh nhận được một sự hồi đáp khả dĩ có thể dự
đoán được một vài cơ may hoà giải ." ( Le vice-amiral
répondit le 26 avril "que, si la paix était signée,
le commerce extérieur dea Annamites, alors détruit par
les croiseurs, reprendrait librement son cours; que
par le fait de l' établissement des Français à Saigon
et à Mỷ Tho, la prospérité de la Bassse-Cochinchine
se développerait même au delà de ce qu' ell était avant
la guerre, qu'enfin, la France, au lieu de créer des
difficultés au gouvernement de Huế, pourrait, dans bien
des circonstance, lui prêter son appui.En transmettant
ces réflexions au phòng biên quân thứ, il dit qu ' il
serait heureux de recevoir une réponse qu ' il fit entrevoir
quelque possibilité de conciliation." (A. Schreiner,
sách đã dẫn, trang 208).
Trước đó 3 ngày (23 tháng 4 dl 1861), Charner đã ra
lệnh phong tỏa và cấm vận trên dòng sông Mê-Kong, trên
các sông lạch vùng đồng bằng của con sông nầy ngoại
trừ sông Sài Gòn và cấm mọi chuyên chở lúa gạo trên
vùng biển của đế quốc An Nam. Ngày 19 tháng 4 dl năm
1861 ra lệnh giới nghiêm trên toàn thể các vùng lãnh
thổ chiếm đóng. toàn bản văn lệnh cấm vận và lệnh giới
nghiêm của Charner được A. Schreiner ghi lại như sau:
- "Le vice-amiral commandant en chef les forces
navales françaises dans les mers de Chine, et les forces
de terre et de mer en Cochinchine;
Considérant qu' en attendant l' institution de tribunaux
compétents pour juger les crimes et d' élits, il est
urgent de pourvoir à leur répression;
Considérant, en outre, que la guerre cotinue d' exister
entre le gouvernement de l' Empereur et le gouvernement
de Huế:
Déclare:
Coformément à la loi du 9 au 11 août 1849, article 5,
chapitre II, les provinces de Saigon, de Mỷ Tho et tous
les territoires occupés par nos troupes son en état
de siège.
Néanmoins, conformément à l' article 7, chapitre III
de la loi précitée, l' autorité civile continue, comme
par le passé, d' exercer le pouvoir dont ell est révêtue,
et ce n' est que du moment où cette autorité devient
insuffisante que, sur un ordre d' inforner du commandant
en chef, l' action de l' autorité militaire commence.
Le général commandant les troupes du corps expéditionnaire,
les commandants particuliers de Saigon et de Mỷ Tho,
sont chargés de donner toute la publicité possible à
la présente déclaration " (A.Schreiner, đã dẫn;
trang 205, 206).
Tạm dịch:
- " Thủy sư phó đề đốc tư lệnh các lực lượng hải
quân của nước Pháp ở hải phận Trung Hoa và các lực lượng
bộ binh ở Nam Kỳ;
Chiểu chi, trong khi chờ đợi các định chế tòa án có
thẩm quyền xé xử các tội phạm hình sự và các trường
hợp khinh tội, cần phải áp dụng phương cách khẩn cấp
để chận đứng những tội phạm đó;
Chiểu chi, ngoài ra, trong khi chiến tranh vẫn tiếp
diễn giữa chánh phủ của triều đình nước Pháp và chính
phủ của triều đình Huế;
Nay tuyên bố:
Chiểu chi, theo luật (Pháp) ban hành ngày 9 và 11 tháng
8 d.l năm 1849, điều 5, chương II, nay đặt tình trạng
phong tỏa tại các tỉnh Sài Gòn, Mỹ Tho và các vùng lãnh
thổ do quân đội (Pháp) của chúng ta đang chiếm đóng.
Tuy nhiên, chiếu theo điều 7, chương III của luật vừa
kể trên, chính quyền dân sự vẫn tiếp tục, giống như
trong quá khứ, hành xử các quyền hạn đã được trao cho
đến khi nào chính quyền dân sự nầy không còn đủ năng
lực thì lúc đó vị chỉ huy quân sự mới cho áp đặt chính
quyền quân sự.
Tổng tư lệnh các lực lượng viễn chinh, các tư lệnh
đặc biệt trong các tỉnh Sài Gòn, Mỹ Tho chiếu nhiệm
vụ phổ biến rộng rãi tuyên bố nầy."
Khi gởi văn thư vừa kể trên, Charner đã đính kèm thêm
bản sao lệnh phong tỏa và lệnh giới nghiêm nầy khiến
cho phía người An Nam phải rụng rời. Trong tác phẩm
Histoire de l'Expédition de Cochinchine en 1861, của
Léopold Pallu de la Barrière có ghi lại phản ứng của
Nguyễn Bá Nghi khi phúc đáp cho Charner và được A. Schreiner
trích dẫn như sau :
Cette nouvelle, dit Pallu, consterna les Annamites.
Même après la prise de Mỷ Tho, ils avaient continu d'
espérer que les rigueurs de la guerre ne les atteindraient
pas dans un approvisionnement qui, pour eux, est la
première condition de la vie. Le Kinh lược se récria
sur tant de dureté, sur les faits accomplis, sur l'
inflexibilité des conditions qui lui étaient transmises,
enfin sur cette nouvelle calamité (3 mai 1861). "Depuis
trois ans que vous nous faites la guerre, rien dans
ce malheureux empire n' a échappé aux coups que vous
avez portés. Nos magasins ont été incendiés, nos forteresses
prises et démantelées, nos bâtiments de guerre brûlés,
notre commerce ruiné; nos jonques chargées d'étoffes
précieuses ont été coulées, nos soldats tués, nos maisons
détruites. Vous nous demandez de l' argent; nous sommes
devenus pauvres. Est-ce donc un spectacle agréable au
Maîttre du ciel que celui de tant de calamités donc
vous êtes cause? Maintenant vous arrêtez les riz; nos
peuples mourront donc de faim." Et à la fin, non
sans fierté: "Puisque c' est la dernière ressource
que votre Excellence nous laisse, eh bien! nous trouverons
encore des armes et nous vous combattrons."
Le vice-amiral répondit (7 mai 1861) "qu' il ferait
ses efforts pour repousser les armes par les armes.
Tạm dịch: Tác giả Pallu nói rằng sự
kiện mới mẻ nầy khiến cho người An Nam bị sửng sốt.
Ngay cả vào lúc tỉnh Mỹ Tho đã bị chiếm cứ, họ vẫn còn
tiếp tục hy vọng rằng chiến tranh khắc nghiệt sẽ không
đụng tới nguồn thực phẩm mà đối với họ là điều thiết
yếu số một cho cuộc sống. Viên quan kinh lược cực lực
phản đối về những chuyện đã rồi, về tính cách không
co dãn của những điều kiện gởi tới cho ông và nhất là
tai họa mới nhận được (3 tháng 5 dl năm 1861). "Kể
từ sau 3 năm các ông gây chiến với chúng tôi, không
có một cái gì trong đất nước bất hạnh nầy thoát khỏi
được những trận đánh đấm của các ông mang tới cho chúng
tôị kho lẫm của chúng tôi bị thiêu rụi, thành quách
bị đánh chiếm và giựt sập, tàu chiến bị đốt cháy, việc
buôn bán của chúng tôi bị sụp đổ, ghe thuyền chở hàng
tơ lụa quý hiếm của chúng tôi bị đánh chìm, quân binh
của chúng tôi bị giết hại, nhà cửa bị thiêu đốt. Các
ông đòi tiền; chúng tôi trở thành bần cùng. Như thế
phải chăng là một cảnh tượng thú vị dâng lên cho đấng
tạo hóa với bao nhiêu tai họa do các ông gây ra? Nay
các ông lại chận ngăn lúa gạo và người dân của chúng
tôi sẽ bị chết đói." Và cuối thư, với lời lẽ không
kém phần tự phụ: "Và bởi vì đó là nguồn mạch cuối
cùng mà quan soái để lại cho chúng tôi, vậy thì chúng
tôi còn có có súng đạn, chúng tôi sẽ chiến đấu."
Viên Phó đề đốc viết thơ trả lời (ngày 7 tháng 5 dl
năm 1861) rằng: " ông ta sẽ cố gắng đẩy lui súng
đạn bằng súng đạn
Chương
6
Tuy vậy, thơ hồi đáp của Charner cũng chưa làm đổ vở
cuộc thương thảo giữa đôi bên và vào ngày 7 tháng 6
dl năm 1861, Charner lại chuyển đến quân thứ Biên Hoà
một văn thư nhắc lại những điều kiện đòi hỏi để việc
tái lập hòa bình có thể thực hiện. Văn thư đó như sau:
"J' aurais répondu moins tardivement à la terre
que Votre Excellence m' a fait l' honneur de m' adresser,
si je n' avais été persuadé que, dans ma précédente
correspondance, j'ai fait connaitre, d'une manière détaillée,
les bases d' après lesquelles nous pourrions conclure
une paix durable.
Toutefois, dans la crainte d' avoir commis quelque
oubli, je vais récapituler les conditions d' après lesquelles
je dois traiter:
1) Libre exercice du culte chrétien.
2) Cession de Saigon et de sa province.
3) Cession de Mỷ Tho et du terrain qui l' entoure.
4) Cession de Thủ Dầu Một, dans la province de Biên
Hòa.
5) Libre navigation des cours d' eau de l' Ouest.
6) Libre circulation des Européens dans l' intérieur
de l'empire, à la condition pour eux de se soumettre
aux lois du pays.
7) Remise entre les mains du consul du port le plus
voisin, de Européens prévenus d'infraction aux lois.
8) Droit de représentation réciproque des deux souverains
de France et de Cochinchine à la cour l' un de l'autre.
9) Établissement de consulats et liberté donnée au commerce
européen dans les ports principaux.
10) Amnestie pour tous les faits relatifs à la guerre.
11) Indemnité de quatre millions de piastres.
12) Admission de l'ambassadeur espgnol à prendre part
au traité à intervenir.
Jusqu' à présent, Votre Excellence, ne tenant aucun
compte des faits accomplis, n'a approuvé que deux clauses,
le libre exercice du culte chrétien et l'admission de
l'ambassadeur espagnol à prendre part au traité.
Votre Excellence s'est plainte constamment de l'exagération
de mes demandes, mais tout en m'assurant de son vif
désir de la paix, elle a jusqu'à présent évité de formuler
d' une manière précise les concessions qu' elle consentirait
à nous faire.
Votre Excellence a plusieurs fois fait remarquer qu'en
retour des avantages que nous réclamions, nous n'avions
aucune compensation à lui présenter, et que la cession
de la province de Saigon équivalait à celle de toutes
les provinces de l' Ouest de la Basse-Cochinchine.
J'aurai l'honneur de répondre encore que la paix permettra
à l'empire d' Annam de faire sûrement et avantageusement
le commerce; de cesser d'être sous le coup de nouvelles
attaques de notre part; de pouvoir communiquer avec
les provinces de l' Ouest, qui sont exposées dans ce
moment à échapper à sa domination.
Si la guerre, au contraire, se prolonge, la situation
de l' empire ne peut manquer de s'aggraver. Votre Excellence,
sans nul doute, a dû déjà remarquer cette tendance."
(A.Schreiner; sách đã dẫn ; trang 208, 209).
Tạm dịch:
"Sở dĩ bản chức chưa hồi đáp ngay lá thư của ngài
là vì bản chức đinh ninh rằng trong văn thư trước đây
bản chức đã thông báo đầy đủ chi tiết các cơ sở mà theo
đó đôi bên chúng ta có thể dựa vào để đi tới một kếc
cuộc hòa bình lâu bền.
Tuy nhiên, vì sợ rằng có điều thất thố, bản chức sẽ
tổng hợp lại các điều kiện mà bản chức cần bàn định:
1 Tự do theo đạo Gia tô.
2) Trao nhượng thành phố Sài Gòn và tỉnh thành Gia Định.
3) Trao nhượng tỉnh Mỹ Tho và cá vùng đất phụ cận của
tỉnh nầy.
4) Trao nhượng Thủ Dầu Một nằm trong tỉnh Biên Hòa.
5) Tự do lưu thông trên sông rạch miền Tây.
6) Người Âu Châu tự do đi lại trong nội địa nước Đại
Nam, tuân thủ luật lệ của nước nầy
7) Giao nạp cho trú sử tại một cảng gần nhứt những người
Âu châu vi phạm luật pháp.
8) Quyền đại diện hổ tương giữa 2 vương quốc Pháp và
Nam Kỳ trước tòa án của mỗi nước.
9) Thiết đặt các trú sứ và quyền tự do thương mại cho
người Âu châu tại các thương cảng chính yếu.
10) Ân xá cho tất cả những hành vi đã qua có liên hệ
với chiến tranh.
11) Bồi thường chiến phí bốn triệu đồng.
12) Thừa nhận cho đại sứ nước Tây Ban Nha được dự phần
vào việc ký kết hiệp ước.
Cho đến nay, thượng quan vẫn không đếm xỉa gì tới thực
tế đã xảy ra mà chỉ chịu chấp nhận có 2 điều khoản là
tự do truyền bá đạo gia tô và thừa nhận cho dại sứ Tây
Ban Nha đực tham dự vào việc đinh ước.
Thượng quan cứ lập đi lập lạisự oán trách về những
đòi hỏi mà thượng quan cho là quá lố của bản chức, và
một mực chứng tỏ ước vọng hòa bình của thượng quan nhưng
cho đến lúc nầy thượng quan vẫn tránh né đưa ra một
phương thức chính xác về những nhân nhượng mà thượng
quan đồng ý trao cho chúng tôi.
Thượng quan đã nhiều lần lưu ý rằng những lợi lộc mà
chúng tôi đòi hỏi thì lại không có một khoản đền bù
ngược lại từ phía chúng tôi đề nghị với thượng quan,
và thượng quan cho rằng trao nhượng một tỉnh Sài Gòn
không thôi thì cũng đủ ngang bằng với các tỉnh miền
Tây của Nam Kỳ.
Bản chức lại hân hạnh phúc đáp rằng hoà bình sẽ khiến
cho nước An Nam có được một nền thương mại vững mạnh,
sẽ tránh cho quý quốc không còn phải chịu những sự tấn
công mới của chúng tôi, sẽ khiến cho quý quốc có thể
giao lưu với các tỉnh miền Tây mà hiện nay được thoát
khỏi sự thống trị của chúng tôi.
Ngược lại, ví bằng chiến tranh cứ kéo dài thì tình cảnh
kốn đốn của quý quốc càng trầm trọng thêm. Ngài thượng
quan chắc hẵn là đã phải nhận định tình thế theo chiều
hướng đó."
*
Lời lẽ cuối thơ phúc đáp của Charner vừa dẫn ra ở trên
đầy giọng hăm dọa chẳng hạn như "tránh được những
sự tấn công mới của chúng tôi" , "Khiến cho
quý quốc có thể giao lưu với các tỉnh miền Tây hiện
nay được thoát khỏi sự thống trị của chúng tôi",
" . . .chiến tranh kéo dài thì tình trạng khốn
đốn của quý quốc càng trầm trọng thêm."
Không những hăm dọa mà còn cho thấy được ý đồ tham
vọng xâm chiếm bành trướng lãnh thổ của đoàn quân viễn
chinh xâm lược Pháp-Tây Ban Nha ngay từ giai đoạn nầy.
Trong văn thơ hồi đáp, Charner có tham chiếu văn thư
của Nguyễn Bá Nghi trước đó gởi cho ông ta. Vậy Nguyễn
Bá Nghi đã viết gì trong văn thư đó? Không có thư tịch
hoặc sách vỡ nào chép lại các văn thư giao dịch của
Nguyễn Bá Nghi trong khi thương lượng với Charner. Tuy
nhiên, sách ĐTLCB của sử quán triều Nguyễn có ghi lại
những lời cố vấn của Trương Đăng Quế về việc Nguyễn
Bá Nghi giảng hòa làm kế hoãn binh như sau.
Chương
7
Trương Đăng Quế dâng sớ nói: Người Tây Dương ý muốn
chiếm đóng Gia Định, lại muốn cắt lấy tỉnh Tường tỉnh
Biên, yêu cầu như thế, sợ hòa cuộc không thành. Trừ
ra việc chiến việc thủ, không có kế gì khác. Nhưng các
quan ở quân thứ, xét kỹ thực tình, nhiều người kém khí
hăng hái, nên cho Lê Quang Tiến, Thân Văn Nhiếp trích
lấy vài vệ biền binh trước phái đi hiện còn ở Thuận-Khánh
để nhờ sức mới, chia nhau phòng bị cố giữ. Đỗ Thúc Tỉnh,
Nguyễn Túc Trưng cũng giục đến ngay để làm công việc
của các viên ấy, khiến cho An, Hà, Vĩnh Long có chỗ
nương tựa. Đấy là việc cần cấp lúc bấy giờ. Sức cho
Nguyễn Bá Nghi lại viết thư cho Tây dương. (Thư nói:
nước Tây dương đến đây, chỉ vì thông thương, lập phố,
Giảng đạo mà thôi. Không phải là tham đất đai của ta,
nay đã được như nguyện, lại muốn cắt lấy Gia Định, là
cớ làm sao? Nếu bảo là cứ lấy sức khỏe đánh mà lấy,
thì cứ chiếm cứ không trả lại, còn cần phải đợi nước
ta cắt mà giao cho làm gì? Hay là theo như việc cũ ở
Quảng Đông (Trung Quốc) người Hán người Tây dương chia
nhau mà cai trị. Về thuế khóa, trừ thuế dinh điền ra
không kể, phàm thuế lệ thuyền buôn, đều chia đôi. Tính
từng năm thu lấy để đền vào phí tổn. Định Tường, Biên
Hòa mỗi tỉnh cho lập một phố để buôn bán. Như thế mới
có thể giảng hòa được. Nếu lấy sức mạnh mà chiếm cứ,
sợ dân không theo, ngày nay lấy thế tự lực mà bắt hiếp
dân, ngày sau chẳng khỏi lại sinh ra mối hiềm khích,
tai họa binh đao không bao giờ thôi. Thực không phải
là phúc tốt của binh dân 2 nước. Đại Ý như thế). Xem
Tây dương trả lời thế nào, sẽ tùy nghi xử trí. Vả lại,
để đợi Quang Tiến, Thúc Tỉnh đến, tìm nhiều cách chiêu
tập dân binh, rồi tính cách khôi phục, đấy là cách thứ
2." (ĐNTLCB; đệ tứ kỷ III; quyển XXIV, trang 208,
209, bản dịch, Hà Nội 1974).
Rất có thể văn thư của Nguyễn Bá Nghi gởi cho Charner
đã dựa vào những chỉ thị và cố vấn của Trương Đăng Quế
và sau đó Charner mới phúc đáp với những lời lẽ hăm
dọa như đã dẫn chiếu ở phần trên. Từ những lời cố vấn
nầy của Trương Đăng Quế người ta có thể thấy được rằng
triều đình Huế đã có khuynh hướng chủ hòa thương luợng
nhưng vẫn tiếp tục chuẩn bị quân sự để chiến đấu và
cho rằng những thất bại về mặt quân sự là do các tướng
triều đình cầm quân yếu kém.
Trương Đăng Quế u mê về sức mạnh của quân đội xâm lược
Pháp cho nên mới đánh giá các tướng lãnh của triều đình
như thế: Nguyễn Tri Phương phải bỏ đồn Kỳ Hòa để rút
chạy về Biên Hoà nhưng không ai có thể phủ nhận Nguyễn
Tri Phương là một tướng lãnh tài ba đứng nhứt triều
đình vào lúc đó. Các tướng lãnh sau Nguyễn Tri Phương
nơi quân thứ Biên Hòa chưa được dịp đọ sức với quân
Pháp nhưng dấu vết run sợ đã thấy phản phất, điển hình
qua quan khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi qua lời trình
tấu sau đây:
<
Lại xem trong khoảng niên hiệu Minh Mạng-Thiệu Trị
tiết thứ đánh giặc Khôi, đánh Xiêm La, Cao Man. Vì đất
Nam Kỳ nhiều sông ngòi, thủy binh cùng bộ binh tiếp
ứng lẫn nhau. Các hạng thuyền hải đạo, thuyền ô, thuyền
lê, nhẹ nhàng nhanh chóng dùng rất tốt. Những hạng súng
lớn đạn nặng đều dùng thuyền lớn chở từ kinh đô đi đường
biển chở đến. Còn hết thảy tiền, gạo, khí giới và thuyền,
các hạng đều do 6 tỉnh cung ứng, lấy vào đâu cũng thừa
thãi. Thế mà lấy toàn lực như vậy, đánh một giặc Khôi
phải 3 năm mới xong việc, dẹp một nước Cao Man cũng
2 năm mới giảng giải xong
Chương
8
Nay 2 tỉnh Gia Định, Định Tường là nơi quãng giữa trong
6 tỉnh, trên từ bọn sơn man, dưới đến cửa biển, người
Tây dương đã chiếm giữ được cả; còn 3 tỉnh Vĩnh Long,
An, Hà thì cách trở không thông, Biên Hòa đã liền sáp
với bọn ho. Rừng lớn đằng sau, nối đến đất man, rất
là chỗ đứt ngang. Tuy 4 tỉnh ấy đều có thuyền, nhưng
khó đối địch với tàu của Tây dương được. Cho nên thần
nói rằng dù cho có nhiều thuyền quân cũng chưa dùng
được là thế đó. Hiện nay Tây dương đã chiếm cứ Gia Định,
Định Tường, hòa hay không hòa, chỉ một việc ấy ta đã
thua thiệt rồi. Nếu hòa mà họ không trả lại 2 tỉnh ấy
thì ta chỉ có thua thiệt có bấy nhiêu thôi, mà Biên
Hòa, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên còn là của ta, đường
bộ đường biển có thể giao thông được, để cứu cấp trước
mắt, mà tính cách về sau. Nếu ta cho thế mà thua thiệt
mà không hòa thì họ có chịu ngồi yên đâu, cả 6 tỉnh
Nam Kỳ rồi cũng mất cả. Việc buôn bán trên sông, và
việc vận tả đường biển đều đứt mất cả. Chỗ đáng lo ngại
khó nói ra được. Thần không dám nói điều quá đáng. Cho
nên thần nói rằng: hòa thì dẫu thua thiệt mà sự thế
Nam Kỳ còn làm được, nếu không thì thần không biết chịu
tội vào chỗ nào, là thế đó. Ngày nay thế giặc như thế,
hiện tình 6 tỉnh như thế, việc đánh hay giữ không thể
thi thố được. Không có sự thực đánh giữ, chỉ phô trương
hình thức, chỉ cho giặc chóng sinh lòng mà thêm tổn
hại thôi. Cho nên tôi gần đây không đắp đồn lũy, bớt
việc trưng lương gọi lính, là vì cớ đó. Đấy là chủ ý
của tôi. Duy quân Tây dương yêu cầu quá đáng, tôi cố
sức biện bạch, đã đến 4 lần, mà khí thế của họ rất găng,
giỡ giọng dã man. Thần đã lại nói như trước, thực là
có chỗ không tiện, không chịu nổi, cho nên chưa dám
y theo. Đã phái người đưa thư. Viên quan Tây dương ấy
nói rằng: việc ấy khó giải quyết, đợi 10 ngày nữa sẽ
bàn lại. Vả lại, cứ như phái nhân trở về nói lại thì
xem giọng nói, cách khoản tiếp của họ, cũng như mấy
lần trước, không có tình ý gì khác. Xem thế thì đủ biết
ta không sinh sự với họ thì họ cũng chưa vội lấn áp
ta. Hãy đợi cho họ trả lời thế nào, sẽ tùy cơ mà làm.
Hiên nay sự thế 6 tỉnh Nam Kỳ như thế, chỉ có một chữ
hòa, còn có thể làm được. Nhưng nay hòa thì một khoản
mất đất, ta đã thua thiệt. Bởi họ cho là của họ đã lấy
được rồi, họ nhất vị cố giữ, ta kiếm lời biện bạch cũng
khó. Còn các khoản khác ta lấy lời lẽ biện bác, hoặc
có thể bớt đi được. Cuối mong hoàng thượng quyết đoán
mà làm, để cứu đỡ nỗi khổ cho dân binh từ Quảng Nam,
Quảng Ngãi trở vào Nam. Nếu hoàng thượng không quyết
đoán mà làm hai mặt kia còn về phần hạ thần thì làm
thư từ đi lại giảng thuyết; còn về phần quân thứ và
các tỉnh thì không dám trái lời của bộ, hoặc phái người
đi chiêu dụ binh dân, hoặc sửa đắp đồn lũy làm ra dáng
đánh giữ. Bên giặc dòm thấy ý ta không thực, lại cố
ý đánh hiếp ta. Thế thì đánh không được, giữ không được,
hòa cũng không được, thần không biết xử trí làm sao
cả".
Vua nói rằng: "Sự thế khó làm, trẫm đã biết hết
rồi. Ngươi có lòng chịu trách nhiệm, nên hết sức mà
làm, để tỏ khí tiết như cây khỏe gặp cơn bảo táp, là
được.
>> (ĐNTLCB đã dẫn; bản dịch; quyển XXIV; trang
210, 211, 212, 213).
*
Tháng 6 âl năm Tân Dậu (niên hiệu Tự Đức thứ 14) (1861),
ĐNTL ghi chép một đoạn văn rất là mờ ám như sau:
"Quan quân thứ Biên Hòa là bọn Nguyễn Bá Nghi
cùng với viên soái của Tây dương bàn, mật đem việc Tây
dương yêu cầu giảng hòa tâu lên. (Có 14 khoản chép ở
tháng 4 năm Tự Đức thứ 15 sau đây)." (ĐNTLCB; sách
đã dẫn; trang 226).
Nghi vấn đặt ra là tại sao sử quán nhà Nguyễn không
liệt kê ra ngay 14 khoản đòi hỏi của quân xâm lược Pháp
gởi cho Nguyễn Bá Nghi vào lúc đó mà lại đợi đến gần
một năm sau (tháng 4 â.l, năm Nhâm Tuất, niên hiệu Tự
Đức thứ 15/1862) mới chịu khai ra? Trong khoảng thời
gian gần 1 năm đó việc gì đã xảy ra? 14 khoản đòi hỏi
của người Pháp gồm có những gì?
Chương
9
Trước hết cần lưu ý: văn thư phúc đáp của Charner chỉ
nêu ra có 12 khoản và ĐNTL kê khai là 14 khoản. Như
vậy có thể suy định rằng kể từ sau văn thư phúc đáp
của Charner, hai bên vẫn còn tiếp tục bàn bạc thương
thảo và phía người Pháp lại gởi một văn thư tiếp theo
(có thể là trong vòng tháng 6 â.l năm Tân Dậu /1861)
trong đó ghi 14 khoản, tức là đòi hỏi thêm 2 khoản so
với 12 khoản đòi hỏi trong văn thư của Charner trước
đó. Như vậy, người ta thấy rằng càng kéo dài việc thương
lượng thì quân xâm lược càng đòi hỏi thêm và chính sự
lấn lướt nầy của người Pháp đã khiến cho Tự Đức nổi
nóng quở trách Nguyễn Bá Nghi và nhóm quân thứ ở Biên
Hòa là nhút nhát chỉ thấy chủ ý giảng hòa và lại cho
rằng những người theo đạo gia tô tiếp tay cho giặc ngoại
bang:
Vua dụ rằng: "Nguyễn Bá Nghi tự khi sai đi đến
nay chỉ thấy chủ ý giảng hòa, bởi vì không biết rằng
muốn cẩn thận về sau phải suy nghĩ tự trước, dễ dàng
nhận lời, để đến nỗi càng thêm khó làm mà thôị Nay nếu
không thi thố được việc gì, thì ra Tôn Thất Cáp đã lỡ
việc từ trước, Nguyễn Tri Phương lại làm hỏng việc ở
khoảng giữa, người lại không nên công trạng gì ở sau
cùng. Còn có thể gọi là chân tay tai mắt của vua vui
buồn cùng liên quan với nhau được ư ? Kể ra cái nghĩa
vua tôi ở khoảng trời đất, không sao trốn được. Ta trông
cậy về các ngươi là ở lúc nầy, mà các ngươi báo ơn nước
cũng ở lúc nầy. Cần phải cùng nhau báo ơn nước, làm
giấy tờ đi lại, biện bác, vặn bẻ, lấy lòng thành mà
cảm hóa, lấy lẽ phải ma bẻ bác đi, cốt cho điều gì họ
cũng nghe theo. Lại chọn chỗ núi rừng hiểm xa, đặt đồn
để giữ cho vững, chiêu tập các nghĩa sĩ, để mọi người
vui làm việc với ta, chỗ nào cũng đều là lính, là lương.Nếu
có sa sẩy cũng không đến nỗi thua to như trước. Đấy
cũng là cách làm thần diệu cho chóng thành hòa nghị
đó. Nếu lại bỏ việc đánh, việc giữ, thì có kế gì tốt
hơn để chế ngự họ.
Vả lại, Nguyễn Bá Nghi hiểu việc nhanh giỏi, Tôn Thất
Đính, Lê Quang Tiến dũng cảm hăng hái, Thân Văn Nhiếp
siêng thẳng khảng khái, Trần Đình Túc tài biện khả quan,
Trẫm đã chọ ra để dùng, mong mỏi rất nhiềụ Các ngươi
nên hết lòng báo ơn nhà nước cho chóng thành công, tất
được thưởng rất hậụ Nếu không làm thế nào để che được
cái lỗi các quan quân thứ lần trước, thì đều là một
hạng vô dụng, không có mặt mũi nào trông thấy ta nữa
". . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
Vua cho là Nguyễn Bá Nghi chỉ cứ nhất vị nhút nhát,
không từng lập kế giữ gìn huấn sức các tướng sĩ bao
giợ Nhân dụ quở rằng: "Về cách dụng binh, địa lợi
nhân hòa, không thể thiếu một mặt nào. Nay toàn cõi
Biên Hòa, há không có chỗ nào có thể đóng đồn giữ được,
bao nhiêu binh dõng, há đều là vô dụng hay saọ Chỉ bởi
tướng không tự cố gắng, thì quân không có chí chiến
đấu. Nguyễn Bá Nghi làm việc đã rất sơ sài khinh suất,
mà Tôn Thất Đính, Lê Quang Tiến, Thân Văn Nhiếp, Trần
Đình Túc, Nguyễn Túc Trưng cũng không thi thố được mưu
chước gì cả. Nếu quân bị tan rả thì trốn sao khỏi tội.
Vậy bọ ngươi phải hết lòng trù tính mà làm, cốt giữ
lấy Biên Hòa cùng Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên để giữ
vững cõi ven của tạ Rồi sau hoặc đánh, hoặc hòa sẽ dần
dần lấy lại 2 tỉnh Gia Định, Định tường. Trẫm đã ủy
cho bọn ngươi được chuyên việc đánh dẹp, cho được bày
mưu kế ra mà làm, chớ có quên lãng." (ĐTLCB, sách
đã dẫn, trang 226,227,228)
Cùng một lúc đó, Tự Đức đã sức nhắc lại các địa phương
phải nghiêm ngặt chia ghép dân theo đạo Gia tô, bắt
phủ huyện thích chữ vào mặt họ, ghép họ đến ở vào các
xã thôn không có đạo và phải quản thúc họ thật nghiêm.
Những chức sắc đạo gia tô vẫn tiếp tục bị giam cầm thật
chặt chẽ. Nếu quân Pháp đến nơi nào thì đem dân theo
đạo gia tô ở nơi đó mà giết cho hết. Phủ huyện nào chứa
chấp bao che cho dân theo đạo gia tô thì chiếu theo
quân luật mà trị tội. (ĐNTLCB đã dẫn; trang 227). Dân
đạo ở Biên Hòa là Phạm Văn Đệ bị ghép tội làm tay sai
gián điệp cho Pháp, Nguyễn Thị Tòng, Nguyễn Văn Bối
bị khép tội tiếp tế giao thông với giặc xâm lược. Tuần
phủ Nguyễn Đức Hoan dâng sớ xin đem 3 người ấy chém
ngay. Tự Đức y cho thi hành tức thì. (ĐTLCB đã dẫn;
trang 229).
*
Như trên đã đề cặp, sách thực lục của nhà Nguyễn vào
tháng 6 â.l năm Tự Đức thứ 14 (Tân Dậu/1861) có nói
tới việc người Pháp đưa ra 14 khoản đòi hỏi nhưng lại
thêm rằng (14 khoản nầy chép ở tháng 4 â.l năm Tự Đức
thứ 15 sau đây), tức là gần 10 tháng sau sách thực lục
mới chịu viết ra nội dung của 14 khoản đòi hỏi nầy.
Có 3 điểm cần truy cứu:
1/- Nội dung của 14 khoản đòi hỏi của người Pháp?
2/- Trong vòng 10 tháng đó có những biến động gì đã
xảy ra?
3/- Nội dung của 12 điều khoản trong định ước Nhâm Tuất
(1862)
*
A/- Nội dung của 14 khoản đòi hỏi của quân xâm lược
Pháp do sách thực lục ghi lại:
1 - Cho tàu Tây dương tự do thông hành ở trên các mặt
sông thuộc về phía tây phía nam thành Gia Định.
2 - Tha cả cho các người tù thuộc về trong thời đánh
nhau.
3 - Ở mặt sông Biên Hòa, Sài-gòn không đắp đồn lũy đặt
quân phòng bị.
4 - Cho được truyền giáo giảng đạo công hành. Vì 2 chữ
công hành đó, cốt là: họ người nào theo đạo, được tùy
tiện giảng tập, người nào muốn tiến theo học đạo cho
giỏi, thì mặc sự thích muốn của họ không nên đặt phép
ngăn trở.
5 - Người Tây dương phạm luật, giao cho quan Tây dương
xét xử.
6 - Người Tây dương công nhiên đi khắp nơi trong nước
ta, nhưng phải tuân theo đúng điều luật.
7 - Tàu Tây dương buôn bán ở cửa biển nào thuận lợi,
và quan Tây dương đóng ở nơi nào.
8 - Phải bồi thường tiền đền mạng cho thân nhân 2, 3
người Tây dương đã bị giết chết.
9 - Nước Cao Man, từ sau không được bắt họ cống hiến
nữa.
10 - Giao hết cả tỉnh thành và đất phụ thuộc của Gia
Định, Định Tường.
11 - Đóng quân ở Thủ dầu một tỉnh Biên Hòa.
12 - Kinh sư của 2 nước đều có quan đại thần đóng ở.
13 - Số bạc bồi thường trước đòi 400 vạn đồng.
14 - Cùng là nước Y Pha Nho xin ở một khu Đồ Sơn tỉnh
Hải Dương, cửa huyện Nghiêu Phong lập sở tuần lấy thuế
10 năm, sau sẽ trả lại nước ta.
*
So sánh với 12 khoản đòi hỏi trong văn thư đề ngày 7
tháng 6 d.l năm 1861 của Charner gởi cho Nguyễn Bá Nghi
(xin xem lại văn thư 12 khoản nầy ở phần trên nơ trang
23 và 24) thì thấy có sự thay đổi nhưng số khoản đòi
hỏi lần nầy tăng lên 2 khoản và đáng chú ý là các khoản
8, 9 và 14.
-Về khoản thứ 8, bồi thường tiền đền mạng cho thân
nhân 2, 3 người Tây dương đã bị giết chết: thực lực
không ghi rõ 2, 3 người Tây dương là ai nhưng vào tháng
6 â.l năm Tân Dậu (1861)có ghi chép vụ 3 người theo
đạo gia tô bị xử chém: Dân đạo ở Biên Hòa là Phạm Văn
Đệ bị ghép tội làm tay sai gián điệp cho Pháp, Nguyễn
Thị Tòng, Nguyễn Văn Bối bị khép tội tiếp tế giao thông
với giặc xâm lược. Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan dâng sớ
xin đem 3 người ấy chém ngay. Tự Đức y cho thi hành
tức thì. (ĐTLCB đã dẫn; trang 229).
Thánh 8 â.l, Tân Dậu (1861), Thanh Hóa lùng bắt được
2 giáo sĩ ngoại quốc tên là Xay Da-tô Bô-ni-e và Ma
Tô Bông, quan tỉnh và viên phủ đều được khen thưởng.
(ĐNTL; sách đã dẫn, trang 237) .
Tháng 10 â.l, Tân Dậu (1861), tỉnh Bình Định bắt được
một giáo sĩ ngoại quốc tên là Y-ty-Anh. (ĐNTL, sách
đã dẫn trang 245). Từ sự ghi chép nầy người ta có thể
suy diễn rằng:
* -2, 3 người Tây dương bị giết chết được đề cập nơi
khoản 8 chính là 2 giáo sĩ bị bắt ở Thanh Hóa và 1 bị
bắt ở Bình Định.
* -Văn thư 14 khoản của Charner được gởi tới quân thứ
Biên Hòa sau tháng 10 â.l năm Tân Dậu (khoảng tháng
10 hay tháng 11 dương lịch 1861 bởi vì sau đó Charner
đã bàn giao chức vụ thống soái cho Bonard vào ngày 30
tháng 11 d.l năm 1861).
-Về khoản thư 9: Nước Cao Man, từ sau không được bắt
họ cống hiến nữa. Khoản đòi hỏi nầy nhứt định là phải
xảy ra sau khi vua nước Cao Miên Norodom đã bắt đầu
chịu khuất phục đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp ở
Sài Gòn bởi vì ngày 21 tháng 3 d.l năm 1861 Charner
phái phó thuyền trưởng Lespès mang một là thư sang Kampot
để chiêu dụ vua Cao Miên Norodom và ngay sau đó vua
Cao Miên đã cử một sứ đoàn 80 người mang lễ vật xuống
Sài Gòn gặp Charner để xin chịu thần phục và nhờ người
Pháp che chở hầu thoát khỏi ảnh hưởng của 2 nước Đại
Việt và Xiêm La. (Cũng xem thêm: Nguyễn Công Tánh, Việt
Sử Tân Khảo Chú Giải và Khảo Luận V, trang 1394 và trang
1404 phần chú thích số 14.) Nội dung lá thư của Charner
gởi cho vua Cao Miên như sau:
- "Les derniers événements de la Cochinchine sont
parvenus à la connaissance de Votre Majesté. Elle sait
que les troupes franco-espagnoles ont chassé les Annamites
des lignes de Chí Hòa, que Saigon est dégagé et que
l' armée ennemie vaincue s' est dispersée dans toutes
les directions. Les populations des environs, à de grandes
distances sont venues faire leur soumission et accepter
la protection qui leur était offerte.
L' intention de la France est de conserver sa conquête,
de fonder dans la Basse-Cochinchine une colonie et d'
y apporter tous les bienfaits de la civilisation européenne.
Le Cambodge a toujours eu avec la France des relations
d' amitiéẹ J' espère que nos rapports, en devenant plus
fréquents, deviendront aussi plus intimes.
Comme commandant des forces de terre et de mer en Cochinchine,
et comme représentant de la France, je viens assurer
Votre Majesté de nos meilleures intentions à l' égard
du royaume du Cambodge et réponsonse aux avances da
paix et d' amitié que le Roi, votre père, sire, a souvent
faites au représentant du noble Empereur des Français
à Saigon.
J' ai l' honneur d' informer aussi Votre Majesté, que
je compte, dans un temps peu éloigné, porter nos forces
sur Mỷ-Tho et m' emparer de cette place, dernière défense
des Annamites vers le Cambodge.
Le commandant de l'avisio de sa Majesté Impériale,
le Norzagaray, pourra entrer en communication avec votre
Majesté, si tel est son désir.
J' offre à Votre Majesté . . . ." (A. Schreiner,
sách đã dẫn; trang 183).
Theo nội dung của lá thư nầy gởi cho vua Cao Miên,
người ta thấy ngay người Pháp đã có ý đồ thiết lập chế
độ thực dân thuộc địa trên vùng Nam Kỳ hạ (L' intention
de la France est de conserver sa conquête, de fonder
dans la Basse-Cochinchine une colonie et d' y apporter
tous les bienfaits de la civilisation européenne), đang
chuẩn bị đánh chiếm Mỹ Tho và để rảnh tay đối phó với
triều đình Huế, người Pháp đã dùng lời ngon ngọt để
chiêu dụ người Cao Miên theo về phe với họ trước khi
họ tung quân đi chiếm lấn thêm đất đai của nước Đại
Nam (que je compte, dans un temps peu éloigné, porter
nos forces sur Mỷ-Tho et m' emparer de cette place,
dernière défense des Annamites vers le Cambodge.)
Như vậy có thể suy định thêm được một điều khác là
văn thư trả lời của Charner với 14 khoản đòi hỏi kể
trên được gởi đến cho Nguyễn Bá Nghi sau ngày 21 tháng
3 d.l năm 1861, sau khi sứ đoàn 80 người Cao Miên xuống
Sài Gòn mang theo lễ vật để cống sứ cho quan soái Charner.
Và có thể là, Nguyễn Bá Nghi đem văn thư 14 khoản nầy
tấu trình về triều đình ngoài Huế để Tự Đức cùng các
quan đại thần của Cơ Mật Viện bàn bạc quyết định và
Trương Đăng Quế đã cố vấn đường hướng cho Nguyễn Bá
Nghi áp dụng trong cuộc thương lượng tiếp tục với người
Pháp.
B/ Trong vòng 10 tháng đó có những biến động
gì đã xảy ra?
Như trên đã đề cặp, sách thực lục của nhà Nguyễn vào
tháng 6 â.l năm Tự Đức thứ 14 (Tân Dậu/1861) có nói
tới việc người Pháp đưa ra 14 khoản đòi hỏi nhưng lại
thêm rằng (14 khoản nầy chép ở tháng 4 â.l năm Tự Đức
thứ 15 sau đây), tức là gần 10 tháng sau sách thực lục
mới chịu viết ra nội dung của 14 khoản đòi hỏi đó. Trong
khoảng thời gian nầy (từ tháng 6 âl/ Tân Dậu/ Tự Đức
thứ 14/1861 đến tháng 4 âl/ Nhâm Tuất/ Tự Đức thứ 15/
1862) có những biến động gì đã xảy ra để cho tên tuổi
của ông Phan Thanh Giản bắt đầu xuất hiện trên chính
trường ngoại giao để tiếp nhận một trách vụ đội đá vá
trời, một trách vụ nặng nề ngang với một bản án tử hình
khốc liệt mà kẻ tử tội đang mỗi ngày mỗi giờ đếm từng
bước chân của mình trên những bậc thang đưa lên đoạn
lầu đài.
Chương
10
Tân Dậu, Tự Đức năm thứ 14 (1861), tháng 6 âl, Tự Đức
lặp lại lệnh truyền cho các địa phương phải nghiêm nhặt
tách, ghép các tín đồ đạo Gia tô: thích chữ vào mặt,
quản thúc cho nghiêm, giam nhốt thật gắt gao những giáo
sĩ, nếu người Tây dương tới nơi thì đem đem những kẻ
theo đạo ấy giết cho hết. Phủ huyện nào còn dung túng
đến nỗi sinh ra việc lo ngại thì nhất định là phải chiếu
quân luật trị tội.
Tân Dậu, Tự Đức năm thứ 14 (1861), tháng 7 â.l, cho
Đoàn Thọ thăng thụ Trung quân Đô thống sung làm chức
phòng hộ sứ ở đồn cửa biển Thuận An.
Từ quân thứ Biên Hòa, Nguyễn Bá Nghi và Trần Đình Túc
dâng tập tâu trình tình hình Biên Hòa yếu ớt đơn độc,
không thể vừa đánh vừa giữ được, cuộc giảng hòa lại
không thành, xin giảm bớt quân thứ và phái người đi
cầu viện nước ngoài. Tự Đức trách cứ, cho rằng hai người
chưa thi hành nhiệm vụ đúng mức.
Biên Hòa và Vĩnh Long trở thành những căn cứ địa để
chiêu mộ dân quân kháng chiến chống Pháp. Ngay cả ở
trong các vùng của quân Pháp tạm chiếm cũng có những
ổ kháng chiến. Mạnh và nhiều nhất là ở Gò Công.
Tri huyện Toại trước kia cai trị Gò Công, nay chiêu
mộ hơn 600 dân phu đồn điền và chiến binh thất trận
ở đồn Kỳ Hòa, tổ chức thành một lực lượng kháng chiến
chông Pháp. Đêm 21 tháng 6 d.l rạng ngày 22 d.l năm
1861, dân quân kháng chiến dưới quyền của huyện Toại
tấn công đồn phòng thủ của Pháp ở Gò Công. Đồn nầy do
một sĩ quan hải quân Pháp là Paulin Vial và 27 quân
sĩ trú đóng. Kế hoạch tấn công của huyện Toại bị nội
gián thông báo trước cho Paulin Vial. Cuộc tấn kích
thất bại: quân kháng chiến rút lui để lại chiến trường
14 xác chết trong số nầy có xác của huyện Toại. Phía
quân Pháp thì Paulin Vial bị trọng thương và một pháo
thủ bị tử trận.
Qua ngày hôm sau, một tổ kháng chiến khác ở Gò Công
do Trương Định cầm đầu lại tấn công quân Pháp nhưng
bị quân trú phòng của Pháp đẩy lui. Lực lượng kháng
chiến của Trương Định gây lo sợ và bối rối cho quân
binh Pháp miền Tây: giết chết bá hộ Huy vì Huy được
quân Pháp giao cho cai quản một tổng ở huyện Đông Sơn
trong tỉnh Gò Công mặc dù bá hộ Huy là bạn thân của
Trương Định; truyền rao xử tội những xã trưởng theo
và hợp tác với người Pháp.
Ở vùng Mỹ Tho thì có tổ kháng chiến của tri phủ Cậu,
của thiên hộ Dương cùng nhiều tổ kháng chiến nhỏ khác,
tất cả đã gây khốn đốn không ít cho quân binh đồn trú
của Pháp đồng thời các tổ chức kháng chiến cũng là một
trở ngại cho việc đàm phán hòa bình của 2 bên bởi vì
người Pháp nghi ngờ rằng phía triều đình Đại Nam dụng
kế hoãn binh, một mặt không chính thức phản công trực
tiếp nhưng lại xúi ngầm và yểm trợ cho các tổ chức kháng
chiến đánh phá trong khi vẫn kéo dài cuộc hoà đàm.
Thánh 8 â.l (1861), Thanh Hóa lùng bắt được 2 giáo
sĩ ngoại quốc. Quan tỉnh và viên phủ đều được thưởng
gia
thăng một cấp.
Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang tấu trình về thành tích
đánh phá chống quân Pháp của lực lượng kháng chiến do
cựu phó quản cơ Gia Định là Trương Định cầm đầu. Tự
Đức cất nhắc cho làm quản cơ rồi lãnh chức phó lãnh
binh với số dân quân hơn 6,000 người dưới quyền, chia
thành 6 cơ đội.
Tri phủ Phước Tuy Nguyễn Thành Ý và thuộc hạ Phan Trung
cũng mộ được 2 cơ cộng chung 4,000 người.
Hai con của vua Cao Miên Nặc Ong Đôn là Ong Bướm, Ong
Lan tranh nhau quyền nối nghiệp.
Tháng 10 â.l (1861), án sát sứ Nguyễn Văn Nhã cùng
với quân kháng chiến của tri phủ Cậu tấn công quân đồn
trú Pháp ở Cái Bè và Cai Lậy: phía Pháp có 50 người
bị bắn hạ đa số là lính tập đánh thuê cho Pháp.
Tỉnh Bình Định bắt được một giáo sĩ ngoại quốc tên
là Y-ty-Anh (ĐNTLCB; sách đã dẫn, trang 245)
Ở miền Đông, tình hình kháng chiến không mạnh như ở
miền Tây. Nhưng quân đồn trú của Pháp ở Thủ Dầu Một
luôn phải đưa quân tuần tiểu quanh vùng thường xuyên
để đánh dẹp quân kháng chiến. Trong 3 tháng cuối năm
d.l 1861, các đồn bót của Pháp ở Thủ Dầu Một bị tấn
công mạnh trong những ngày 15, 21 tháng 10 d.l và những
ngày 19, 21 tháng 11 d.l và ngày 1 tháng 12 d.l khiến
cho 2 sĩ quan, 3 pháo thủ thuyền chiến, hai trợ tá người
địa phương bị tử trận và 5 lính tập đánh thuê bị thương.
Phía kháng chiến và quân binh có 150 người bị tử trận.
Trong bài viết l' Extrait du Journal d' un officier
détaché à Mỷ Tho (trích Nhật Ký của một sĩ quan công
tác ở Mỹ Tho) do tác giả người Pháp M. de Grammont ghi
lại tình hình xáo động do dân quân kháng chiến gây ra
quanh vùng Mỹ Tho từ 29 tháng 8 d.l năm 1861 đến 30
tháng 11 d.l năm 1861 như sau:
-29 tháng 8 d.l - Đồn Cây Lậy do Chassériau trú đóng
bị tổ kháng chiến của đốc phủ Cậu tấn công.
-4 tháng 9 d.l - Đồn Bourdais vùng kinh Bảo Định cách
Mỹ Tho 3 dậm bị dân quân kháng chiến tấn công; phó hạm
trưởng Mac-Dermott được phái tới để truy kích.
-5 tháng 9 d.l - Chận bắt ghe chở vũ khí cho kháng chiến.
-14 tháng 9 d.l - Pháp hành quân bình định trong vùng
tứ giác (có thể là vùng đồng bằng nằm trong vùng tứ
giác sông Mê Kong - sông Vàm Cỏ Tây - biển Đông -nước
Cao Miên) để truy lùng phủ Cậu.
15 tháng 9 d.l - Phủ Cậu đích thân chỉ huy tấn kích
đồn Cây Lậy.
21 tháng 9 d.l - Tàu chiến Norzagaray chở quân tăng
viện Tây Ban Nha .
22 tháng 9 d.l - Cánh quân thứ nhì của Pháp do Desvaux
chỉ huy bắt đầu hành quân.
23 tháng 9 d.l - Thuyền chiến Soledad (một loại thuyền
thuyền buồm nhẹ) đã được đưa xuống hoạt động trong vùng
sông Rạch Gầm (Mỹ Tho) từ 15 ngày qua nay lãnh công
tác mở đường dẹp bỏ các chướng ngại vật vùng kênh Thuộc
Nhiêu.
25 tháng 9 d.l - Tái chiếm Mỹ Quý; cha của Phủ Cậu bị
bắn chết.
28 tháng 9 d.l - Cánh quân thứ nhì (do Desvaux chỉ huy)
trở về hậu cứ.
29 tháng 9 d.l - Hành quân vùng sông Vàm Cỏ Tây để truy
lùng những kẻ sát nhơn thị trưởng tỉnh Gò Công.
14 tháng 10 d.l - Pháo thuyền Gougerad pháo kích đồn
Cái Thia (Mỹ Lương - Mỹ Đức).
22 tháng 10 d.l - Truy kích phiến quân vùng rạch Cà
Hôn (vùng hạ lưu sông Mỹ Tho).
30 tháng 10 d.l - Đụng trận với quân phiến loạn ở Rạch
Gầm: 22 người An Nam bị thương.
3 tháng 11 d.l - Đụng trận với phiến quân phiến loạn
ở Rạch Gầm: 14 người An Nam bị thương.
9 tháng 11 d.l - Hành quân tuần thám vùng Mỹ Quý -Phú
Mỹ.
14 tháng 11 d.l - Hoạt động phiến loạn lại tái phát
ở vùng sông Vàm Cỏ.
15 tháng 11 d.l - Quan lại của triều đình gia tăng thuế
ở vùng Mỹ Tho cũ.
17 tháng 11 d.l - Những manh nha lẻ tẻ như cướp bóc
nhắm vào ngay cả những người Tây phương, dọc đường phục
kích đội trưởng chỉ huy đồn Cây Lậy.
28 và 30 tháng 11 d.l - Nhiều hoạt động khác cùng với
các vụ thiêu đốt ở các vùng ngoại vi. (A. Schreiner;
sách đã dẫn; trang 215, 216)
Chương
11
Tháng 11 â.l, Tân Dậu (1861), thủy sư đề đốc Bonard
sang thay thế Charner (Charner bàn giao chức vụ cho
Bonard ngày 30 tháng 11 d.l năm 1861) và Bonard tuyên
bố ngay rằng quân Pháp sẽ tiến chiếm Biên Hòa và nếu
cần sẽ tiến thẳng ra kinh đô Huế (đây là lời tuyên bố
hiếu chiến và cao ngạo của đô đốc Bonard khi vừa mới
đặt chân lên lãnh thổ của nước Đại Nam. Nguyên văn như
sau: "Nous allons marcher sur Biên Hoà et, s' il
le faut, nous irons à Huế" (tạm dịch: Chúng ta
sẽ tiến chiếm Biên Hòa và nếu cần, chúng ta sẽ đi ra
Huế) (A.Shreiner; đã dẫn; trang 222), ra lệnh quân binh
chuẩn bị chu đáo cho cuộc hành quân.
Trong thời gian chờ đợi sắp xếp chuẩn bị, Bonard ra
lệnh cho thuyền trưởng Lespés chỉ huy tuần dương hạm
Norzagaray ra chiếm hữu và thiết lập chủ quyền của Pháp
trên đảo Côn Sơn.
*Hỏa hồng trên sông Nhật Tảo
Sáng ngày 10 tháng 12 d.l năm 1861, sau khi chiến hạm
của Lespés vừa khởi hành đi Côn Sơn thì ở Mỹ Tho quân
kháng chiến do Nguyễn Trung Trực chỉ huy đã lập kế giả
làm thuyền buôn trên sông Vàm Cỏ, áp sát đến gần tàu
chiến L' Espérance đang bỏ neo ở địa phận thôn Nhật
Tảo và hơn 150 quân kháng chiến bất ngờ nhảy lên tấn
công binh lính Pháp trên tàu. Quân Pháp nhảy xuống sông
để trốn và tẩu thoát: 17 lính Pháp bị giết, chỉ có 5
thủy thủ và 3 lính Phi Luật Tân thoát chết. Một số người
dân địa phương ở thôn Nhật Tảo bị quân kháng chiến trừng
phạt giết chết vì hợp tác với quân Pháp, nhà cửa của
những người nầy bị thiêu hủy.
*Đồng loạt khởi dậy
Cuộc tấn kích của Nguyễn Trung Trực trên sông Nhật Tảo
là ngọn lửa chăm ngòi cho những cuộc nổi dậy đồng loạt
của quân kháng chiến để tấn công đốt phá đồn bót của
quân Pháp ở khắp nơi từ ngày 14 đến 30 tháng 12 d.l
năm 1861: Tân An, Cần Giuộc, Gò Công ngày 14/12 d.l
; Gia Thạnh ngày 18 ; Cái Bè ngày 20 và 25 ; Rạch Gầm
ngày 29 ; Rạch Cả Hòa ngày 30. Quân kháng chiến bị thiệt
hại nhiều trong chiến dịch tổng tấn công nầy. Những
người địa phương hợp tác với Pháp để làm việc trong
tổ chức hành chánh cai trị trong các vùng Pháp chiếm
đóng đều bị quân kháng chiến giết chết.
*Quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho đánh chiếm Biên
Hòa
Quân Pháp khởi sự tấn công đánh chiếm Biên Hòa. Điểm
xuất quân có thể chọn từ 3 nơi:
-1/ từ Thủ Dầu Một,
-2/ từ Sài gòn qua con đường cái quan Sài gòn-Biên Hòa,
-3/ từ Sông Sài Gòn dùng thủy lộ qua con sông Đồng Nai.
Không thể xuất quân từ Thủ Dầu Một vì không có phương
tiện để vượt ngang sông Đồng Nai lại thêm có đồn binh
Mỹ Hòa của Đại Nam án ngữ do đó Bonard chọn 2 đường
tiến quân từ Sài Gòn qua đường cái quan Sài Gòn-Biên
Hòa và bằng thủy lộ sông Đồng Nai.
Trước khi ra lệnh tấn công Biên Hoà, Bonard gửi một
tối hậu thư đến quân thứ Biên Hòa. Thư trả lời từ quân
thứ Biên Hòa không đáp ứng được những đòi hỏi của Bonard
và do đó Bonard phát hiệu lệnh tấn công vào ngày 14
tháng 12 d.l năm 1861.
-Cánh quân thứ nhứt theo đường cái quan thẳng tiến
đến đồn Mỹ Hoà.
-Cánh quân thứ 2 tiếp nối cánh quân thứ 1 để đến thôn
Tân Phú.
- Cánh quân thứ 3 do tàu chiến của Pháp ở sông Sài Gòn
ra sông Nhà Bè rồi tiến ngược lên sông Đồng Nai.
-Cánh quân thứ 4 cũng theo thủy lộ để đến thôn Gò Công.
-Các thuyền chiến Renommée, Alarme và Ondine có nhiệm
vụ dọn dẹp các chướng ngại vật trong lòng sông Đồng
Nai và cá pháo đồn dọc theo 2 bên bờ.
Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau khi sau pháo hiệu tấn
công, liên quân Pháp-Y Pha Nho đã chiếm được đồn phòng
thủ ở Gò Công.
Bốn pháo đồn trên bờ sông Đồng Nai pháo kích liên hồi
lên pháo hạm Alarme. Cánh quân thứ 3 của Pháp do hạm
trưởng Lebris chỉ huy dùng ghe đổ bộ quân lên bờ tấn
công các pháo đồn nầy, quân đồn thú bỏ pháo đồn chạy
thoát thân. Các tàu chiến tiếp tục suốt đêm để khai
thông các chướng ngại vật trong lòng sông Đồng Nai và
phải mất 2 ngày 2 đêm dọn dẹp lòng sông mới có thể lưu
thông an toàn tiến thẳng về hướng Biên Hòa. Chỉ huy
cánh quân thứ 1 là Comte bị tử trận khi tiến sát đến
cánh trái của điểm kháng cự Mỹ Hòa. Chỉ huy cánh quân
thứ 2 từ Gò Công được lệnh tiếp tục tấn công vào cánh
phải Mỹ Hòa trong khi pháo binh từ các chiến hạm bắn
vào trung tâm điểm của cứ điểm nầy. Quan binh Đại Nam
bị tấn công từ 3 phía: vì không thể cầm cự lâu hơn quân
binh Đại Nam rối loạn bỏ Mỹ Hòa rút chạy vào thành Biên
Hòa. Các cứ điểm tiền đồn phòng thủ thành Biên Hòa bên
phía phải lưu ngạn sông Đồng Nai đều bị liên quân Pháp
Y Pha Nho chiếm đóng. Bonard liền ra lệnh chuẩn bị thu
xếp chuyển quân sang bờ trái sông Đồng Nai để tiến chiếm
thành Biên Hòa. Đích thân Bonard xuống pháo thuyền Ondine
và cùng với một pháo thuyền khác do thuyền trưởng Jonnart
tiến đến trước mặt thành Biên Hòa để quan sát. Đại pháo
trong thành bắn ra; pháo thuyền của Jonnart bắn trả
vào thành: tiếng súng trong thành chấm dứt và một cụm
khói đen trong thành bốc lên cao. Trời về tối, quan
Pháp chưa thể đổ bộ lên bờ. Sáng hôm sau, đội quân tiền
sát Pháp-Y Pha Nho tiến vào thành Biên Hòa không gặp
phải một sức kháng cự nào. Khi quân Pháp tìm thấy hằng
trăm tù nhân đạo Gia tô bị thiêu sống trong một trại
giam họ mới biết được lý do tại sao có cột khói trong
thành bốc lên cao vào đêm hôm qua.
Chiến lợi phẩm quân Pháp tịch thu gồm có 48 khẩu đại
pháo, 15 ghe buồm đánh trận, vô số gỗ quý. Trong trận
nầy, liên quân xâm lược chỉ có 2 người chết và một số
bị thương không đáng kể. Thiếu tá Y Phan Nho Domenech
Diégo chỉ huy cánh quân thứ 2 được chỉ định giữ chức
tỉnh trưởng Biên Hòa để tiếp tục các chiến dịch bình
định trị an. (A.Schreiner; sách đã dẫn; trang từ trang
222 đến trang 229).
*Quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho tiếp tục tiến
chiếm Phước Tuy (Bà Rịa)
Khi thành Biên Hòa bị hải quân Pháp-Y Pha Nho pháo kích
và trước khi họ tràn vào chiếm thành, phó đề đốc chưởng
vệ Lê Quang Tiến cùng với bộ chỉ huy quân thứ bỏ thành
Biên Hòa rút quân về Bà Rịa-Phước Tuy. Các tổ chức kháng
chiến chống Pháp không còn thế yểm trợ của quân binh
triều đình ở Biên Hòa-Tây Ninh cho nên đa số rút về
miền Tây, hợp cùng với các tổ chức kháng chiến ở đây
để bao vây đánh phá các đồn bót của Pháp chung quanh
các vùng phụ cận của tỉnh Mỹ Tho.
Ngày 4 tháng 1 d.l năm 1862, tất cả đồn bót ở những
vùng đất phía Tây thành Mỹ Tho đều bị quân kháng chiến
bao vây. Quân kháng chiến của phủ Cậu chuẩn bị đánh
Cái Bè nhưng bị quân Pháp bao vây trên tuyến đường tiến
quân Cái Bè-Cai Lậy. Ngày 6 tháng 2 d.l năm 1862, phủ
Cậu bị bắt giải về Mỹ Tho và bị xử tử treo cổ ngay ngày
hôm sau để thị uy các phong trào kháng chiến và làm
vững lòng tin những người Đại Nam địa phương đang hợp
tác với Pháp. Việc xử tử phủ Cậu không có hiệu lực làm
giảm bớt những cuộc nổi dậy của quân kháng chiến nhưng
ngược lại, những cuộc đánh phá của quân kháng chiến
càng nhiều hơn và táo bạo hơn. Ngày 10 tháng 2 d.l năm
1862, quân kháng chiến đánh phá đồn Gò Công và cô lập
đồn Gia Thạnh; ngày 11 đánh phá đồn Rạch Gầm. Ngày 22
tháng 2 d.l 1862 đốt cháy đồn Rạch Cà Hôn rồi lại tấn
công đồn Rạch Gầm; ngày 28 các đồn của Pháp ở Cái Bè,
Cai Lậy, Thuộc Nhiêu, Rạch Gầm đều bị quân kháng chiến
chiếm đóng cùng một lúc và tàu chiến Sham Rock của Pháp
cũng bị phóng hỏa. Kết quả của những cuộc nổi dậy khắp
nơi của quân kháng chiến ở miền Tây khiến cho quân Pháp
phải bỏ các đồn bót để rút về thành Mỹ Tho lo việc phòng
thủ cho thành nầy và tăng cường phòng thủ hai đồn quan
yếu Cái Bè và Cần Giuộc.
Trong khi các lực lượng kháng chiến đánh phá các nơi
ở miền Tây thì tại Biên Hòa; Bonard ra lệnh cho các
tàu chiến chuyển vận thủy binh, bộ binh, cùng với quân
Y Pha Nho tiến đánh Bà Rịa, dùng ghe nhỏ chuyển quân
theo rạch Gành Hào, tạm dừng quân tại một thôn thuộc
làng Long Điền vào ngày 7 tháng 1 d.l năm 1862. Một
đoàn quân tiền thám với hoả lực mạnh tiến sát đến thành
Bà Rịa khoảng 2,000 mét và nổ súng nhưng quân tiền đồn
do táng lý quân vụ Văn Đức Đái chỉ huy đã chống cự thật
dũng mãnh khiến cho quân Pháp phải tạm thời rút lui
quay trở lại Long Điền để chờ qua đêm. Trong đêm, sau
khi tàn sát một số phạm nhân đạo Gia tô bị giam nhốt
trong thành, phó đề đốc chưởng vệ Lê Quang Tiến bỏ thành
Bà Rịa rút quân về hướng Đông và lập phòng tuyến tại
làng Phước Thọ cách Bà Rịa khoảng 15 cây số và một tiền
đồn ở Long Lập ở khoảng 10 cây số hương Đông Bắc Bà
Rịa. Quân Pháp truy kích, quân triều đình tan vỡ, Lê
Quang Tiến rút chạy ra làng Phước Bửu rồi theo đường
cái quan ra Cù Mỹ giáp ranh tỉnh Bình Thuận. Cả tỉnh
Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của liên quân xâm lược
Pháp-Y Pha Nho.
Về việc quân xâm lược Pháp đánh chiếm thành Biên Hoà
và phủ Phước Tuy (Bà Rịa), sách ĐNTL ghi như sau:
Người Tây dương đánh lui quân thứ Biên Hòa, vào chiếm
đóng tỉnh thành. Tự khi Nguyễn Bá Nghi khâm sai thống
lãnh quân vụ, đóng ở bên tả tỉnh thành Biên Hòa (xứ
Tân Lại) để bảo viện cho tỉnh thành, lấy xứ Thạch Hản
thuộc về phận sông Long Đại làm nơi phòng thủ cốt yếu,
lấy hạt phủ Phúc Tuy làm đường vận lương, quan báo cho
các tỉnh Gia Định, Định Tường cùng làm thanh viện với
nhau. Đã đến 7, 8 tháng nay tâu báo hơn 10 lần. Vua
đã thăm hỏi các lời bàn của đình thần, nhiều lần huấn
dụ rằng: cốt ý lấy sự hòa hiếu làm quyền nghi tạm thời,
mà đánh giữ làm thực vu. Thế mà ý riêng của Bá Nghi
chủ ở giảng hòa, không sửa sang việc phòng thủ. Kịp
khi người Tây dương động quân mới xin đòi gọi binh lính.
Đến đây quân Tây dương dùng thuyền quân chặn đóng con
đường ở Gia Định, Định Tường đi đến; lại đánh giữ 2
cửa biển Cần Giờ, Phúc Thắng, luôn mấy ngày đánh phá
vào xứ Thạch Hãn (các ngày 15, 16) quân lui giữ phủ
Phước Tuy. Thuyền quân của Tây dương nhân nước triều
thẳng tiến đến tỉnh thành (ngày 17) dùng súng lớn bắn
phá vào thành. Tỉnh thần, và bọn Nguyễn Đức Hoan (tuần
phủ), Lê Khắc Cẩn (án sát, nguyên tên là Cần) thế không
chống nổi cũng lùi đóng ở đồn mới Hố Nhĩ . Quân Tây
dương vào chiếm lấy thành, lại tiến sát phủ Phước Tuy
đánh bắn. Bá Nghi lại lùi về đóng ở phận rừng Long Kiên,
Long Lập, thuộc phủ Phước Tuy. Việc tâu lên, vua nghiêm
trách các quan ở quân thứ, và ở tỉnh, rồi gia ơn cho
cách lưu, để mưu báo hiệu sau nầy. (ĐTLCB, sách đã dẫn,
trang 255, 256).
Sau khi Biên Hòa bị mất vào tay người Pháp. triều đình
Huế khai phục chức Binh bộ thượng thư cho Nguyễn Tri
Phương sung đổng suất quân vụ Biên Hòa thay thế Nguyễn
Bá Nghi, Tôn Thất Cáp (Hiệp) cho khôi phục Binh bộ thị
lang phụ tá Biên Hòa quân vụ và Nguyễn Công Nhàn trước
kia bỏ thành chạy khi Định Tường thất thủ bị cách chức,
nay được khôi phục quản cơ sung đốc binh đi theo phụ
tá việc quân cho Nguyễn Tri Phương. Lại cấp thêm 2,000
quân để Nguyễn Tri Phương đưa vào tăng cường cho quân
binh ở Cù Mỹ, Bình Thuận.
Nhâm Tuất, Tự Đức thứ 15, tháng 1 â.l (1862), cho tổng
đốc Quảng Nam-Quảng Ngãi là Đào Trí sung chức Kinh lý
đại thần, đốc biện những công việc vận tải lương thực
khí giới để phòng bị từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
Sau khi đánh chiếm Bà Rịa, tàu chiến của Pháp tiếp
tục tuần thám vụng biển Phan Rí - Bình Thuận và đánh
chìm nhiều ghe thuyền chuyển vận quân lương(1) của triều
đình tiếp tế cho quân thứ ở Bình Thuận.
Tháng 2 â.l (1862), giáng Nguyễn Bá Nghi xuống làm
tham tri sung chức phụ tá quân vụ hiệp cùng Nguyễn Tri
Phương bàn việc quân vụ ở Bình Thuận.
Dụ sai tỉnh thần Gia Định. Định Tường là Đỗ Quang,
Đỗ Thúc Tỉnh, phó lãnh binh là Trương Định cùng nhau
phối hợp binh triều đình với quân kháng chiến để chống
Pháp.
*Liên quân xâm lược Pháp - Y Pha Nho đánh chiếm tỉnh
thành Vĩnh Long
Chương
12
Liên quân xâm lược Pháp - Y Pha Nho đánh chiếm
tỉnh thành Vĩnh Long
Ngày 5 tháng 3 d.l năm 1862, quân kháng chiến ở miền
Tây đốt cháy pháo thuyền số 25 và một đại đội binh sĩ
của Pháp trên pháo thuyền đó bị tiêu diệt: 35 chết,
17 trọng thương. Ngày 6 tháng 3 d.l năm 1862, thành
Mỹ Tho bị quân kháng chiến tấn kích lần thứ 3; từ 9
đến 12 tháng 3 d.l năm 1862 một phong trào chống đối
của quần chúng đã diễn ra tại Cầu An Hạ nhưng đã bị
quân Pháp thẳng tay dẹp tắt; ngày 13 tháng 3 d.l năm
1862 quân kháng chiến lại tấn kích thành Mỹ Tho trong
khi quân Pháp chuẩn bị tiến đánh thành Vĩnh Long.
Ngày 21 tháng 2 â.l năm Nhâm Tuất, Tự Đức thứ 15, (
23 thán 3 d.l năm 1862), liên quân Pháp-Y Pha Nho đánh
chiếm thành Vĩnh Long. Trước đây, một tuần sau khi Định
Tường thất thủ, Pháp cho tàu 5 máy chia nhau đi trên
thủy phận sông Vĩnh Long để dò thám và đến thả neo đậu
ở bờ sông gần tiền đồn Thanh Mỹ. Quan đầu tỉnh Vĩnh
Long là Trương Văn Uyển một mặt phòng bị nghiêm cẩn
một mặt chuyển thư sang cho đối phương hạch hỏi lý do
vì sao họ cho tàu đi tuần thám gây hấn như thế, để dùng
kế hoãn binh. Ngày 20 tháng 3 d.l năm 1862, quân Pháp
đưa 2 tàu tuần thám, 9 phóng pháo hạm đến bỏ neo đậu
trên sông, gần tiền đồn Vĩnh Tùng, cho hơn 1,000 quân
lên bộ đào đắp hào luỹ và công sự chiến đấu.
Liền trong 2 ngày 20 và 21 tháng 2 â.l năm Nhâm Tuất
(22 tháng và 23 tháng 3 d.l năm 1862) quân Pháp từ dưới
sông, trên bộ đánh phá bắn vào các đồn sở Thanh Mỹ,
Vĩnh Tùng. Quân binh triều đình chống cự không được,
lần lược bị tan loạn. Tàu chiến Pháp liền tiến thẳng
đến bờ sông tỉnh thành Vĩnh Long dùng trọng pháo bắn
liên tục vào các điểm phòng thủ ở 2 mặt Đông và Tây.
Quân lính trong thành Vĩnh Long bị thương vong nặng
nề, số còn lại đều bỏ thành tháo chạy cả. Khi trời vào
đêm, quân Pháp tạm ngưng pháo kích. Quan đầu tỉnh Trương
Văn Uyển lợi dụng đêm tối phóng lửa đốt các dinh thự,
kho tàng, đạn dược rồi bỏ thành tỉnh rút lui quân ra
đóng ở đồn bảo Vĩnh Trị.
Ngày 21 â.l năm Nhâm Tuất (23 tháng 3 d.l năm 1862)
quân Pháp ung dung tiến vào tỉnh thành không gặp một
sức kháng cự nào của quân triều đình rồi tiếp tục truy
kích và tiến đến đồn bảo Vĩnh Trị, Trương Văn Uyển lại
kéo quân rút lui ra huyện Duy Minh. Tất cả viên chức
thuộc quân thứ Vĩnh Long đều bị triều đình trách phạt.
Quân Pháp tịch thu được 68 súng óng đủ hạng cỡ, đạn
dược và rất nhiều gạo thóc quân lương.
Mặc dù quân chính quy của triều đình Đại Nam đã rút
khỏi 2 tỉnh thành Mỹ Tho và Vĩnh Long nhưng các tổ chức
kháng chiến cùng một số quân binh của triều đình tại
2 nơi nầy vẫn tiếp tục hoạt động khuấy phá và tấn kích
quân Pháp nhất là tại vùng Mỹ Quí ở Mỹ Tho. Sau khi
chiếm thành Vĩnh Long, quân Pháp cử đại tá Y Pha Nho
Palanca Guithierez dẫn một lộ quân hỗn hợp cùng với
thuyền trưởng Desvaux mở chiến dịch bình định vùng Mỹ
Quý ở Mỹ Tho rồi theo đường cái quan dẫn quân về Sài
Gòn. Các hoạt động đánh phá của kháng chiến vẫn tiếp
tục.
Ngày 6 tháng 4 d.l năm 1862, quân kháng chiến đánh vào
Chợ Lớn ở vùng Phú Lâm, tiêu diệt một đồn bót của Pháp,
đe dọa trại binh của Pháp tại đồn Ô Ma khiến dân chúng
Sài Gòn náo động. Quân Pháp lại phải mở chiến dịch tảo
thanh quanh vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Cần Giuộc nhưng không
thể tiến sâu thêm xuống vùng Gò Công hiện thuộc quyền
kiểm soát của lãnh binh Trương Định và quân kháng chiến.
Ở miền Đông, quân Y Pha Nho do đại tá Domenech Diego
chỉ huy cũng phải hành quân bình định liên tục các vùng
quanh Biên Hòa, Tây Ninh, Trảng Bàng để đẩy lui các
nhóm kháng chiến về hướng Tây Bắc.
Tháng 3 â.l năm Nhâm Tuất (1862), có người tên là Nguyễn
Thạnh, người huyện Phượng Nhãn nguyên là chánh tổng,
tục gọi là Cai tổng Vàng, theo đạo Gia tô tự phong là
nguyên soái, suy tôn một nhân vật tự cho là thuộc dòng
họ nhà Hậu Lê tên là Huân (Uẩn) lên làm vua rồi hô hào
dân chúng ở Bắc Kỳ nổi dậy chống lại chính quyền của
nhà Nguyễn ở Quảng Yên. Số người theo Huân hơn ngàn
người, xâm đánh phủ hạt Lạng Giang, đốt phá làng mạc,
cướp phá mùa màng. Phó lãnh binh Tôn Thất Trụy đem quân
tiểu trừ nhưng thất bại. Quân nổi dậy của Huân tiến
đánh vào các huyện hạt Yên Dũng, vây hãm tỉnh thành.
Thanh thế của Huân càng lúc càng lan rộng, chiếm thành
Bắc Ninh, đánh phá các hạt Kinh Môn, Bình Giang, Ninh
Giang, quan binh triều đình phải thay phiên nhau đưa
quân đánh dẹp không ngơi nghĩ. Ngoài ra còn có giặc
thổ phỉ ở các vùng biên Trung Hoa tràn sang cướp phá
phủ Vĩnh Tường ở Sơn Tây, ở Thất Khê thuộc Lạng Sơn;
tín đồ Gia tô nổi dậy ở hạt Kiến Thụy thuộc Hải Dương
và Lạng Giang thuộc Bắc Ninh.
Trước đây khi liên quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho đánh
Quảng Nam - Đà Nẵng vào năm Tân Dậu (1861), trong số
lính tập do Pháp tuyển mộ có Tạ Văn Phụng người miền
Bắc, theo đạo Gia tô. Trong khi còn ở trong hàng ngũ
của binh đội Pháp, Tạ Văn Phụng đã lén lút man trá loan
truyền ra Bắc Kỳ để báo cho khối người theo đạo gia
tô biết rằng quân xâm lược Pháp sẽ tiếp tay để họ nổi
dậy chống lại quan binh của triều đình ở miền Bắc. Việc
loan báo nầy bị người Pháp khám phá và vì sợ bị trách
phạt cho nên Tạ Văn Phụng phải bỏ hàng ngũ lính tập
để trốn ra Bắc Kỳ rồi mạo nhận là dòng dõi nhà Hậu Lê,
tự xưng làm minh chủ, cùng với một giáo sĩ tên là Trường
chiêu mộ người nổi dậy ở Quảng Yên, thông đồng với giặc
cướp biển tàu ô người Hoa và thổ phỉ trên đất Trung
Hoa ở vùng biên giới gây bạo loạn khắp nơi, vây đánh
thành Hải Dương, số người hưởng ứng đi theo lên đến
hơn 20,000. Vào những tháng dương lịch đầu năm 1862,
Tạ Văn Phụng hầu như kiểm soát hết một vùng lãnh thổ
rộng lớn phía ở Đông, quan binh triều đình không thể
đánh dẹp. Trong lúc thanh thế đang lên, Tạ Văn Phụng
đã cho người vào Sài Gòn đề nghị với Bonard tiếp viện
và hậu thuẫn để lật đổ nhà Nguyễn và nước Đại Nam của
Tạ Văn Phụng sẽ đặt dưới quyền đô hộ của người Pháp.
Đề nghị của Phụng không được Bonard nghe theo.
*
Tháng 4 â.l, năm Nhâm Tuất (1862), trong lúc tình hình
bất ổn ở Bắc Kỳ không thể giải quyết, Bonard lại sai
hạm trưởng tàu chiến Forbin là Simon đến cửa biển Thuận
An (đầu tháng 5 d.l năm 1862) để đưa thư liệt kê 3 điều
kiện tiên quyết để hòa đàm:
1/ - Trong vòng 3 ngày phải trả trước cho người Pháp
100,000 quan tiền bồi thường chiến tranh tính ra lạng
bạc;
2/ - Để cho Pháp đặt người của họ toàn quyền cai quản
trên các vùng đất hiện do Pháp tạm chiếm;
3/ - Trong vòng 8 ngày phải cử đại diện để hòa đàm với
Pháp.
Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành đem việc ấy trình
lên. Triều đình bàn bạc và phải chịu chấp nhận những
đòi hỏi tiên quyết số 1 và số 3 của Pháp. Thuyền trưởng
Simon trở về Sài Gòn mang theo 2 điều kiện tiên quyết
của Pháp được triều đình Huế chấp nhận. Sau đó Simon
trở ra Thuận An. Triều đình Huế cử Phan Thanh Giản và
Lâm Duy Hiệp làm chánh, phó sứ toàn quyền đại thần để
hội nghị với người Pháp. Khi sắp đi, Tự Đức rót rượu
riêng của mình ban cho và dụ rằng đoàn sứ không được
nhận điều khoản tự do truyền đạo Gia tô và không được
nhượng thêm đất.
Ngày 24 tháng 4 âl (1862) Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Hiệp đi thuyền Thụy Nhạc uy vệ ra của biển Hội An, qua
tàu Forbin gặp Simon trao 100,000 quan tiền trả trước.
Sau đó tàu Forbin hộ tống thuyền Thụy Nhạc vào Gia Định.
Ngày 30 tháng 4 â.l (26 tháng 5 d.l năm 1862), đoàn
sứ Đại Nam tới Sài Gòn. Cuộc đàm nghị mở ra liên tục
cho đến ngày 9 tháng 5 â.l năm Nhâm Tuất (5 tháng 6
d.l năm 1862) thì 2 bên ký định ước. Các điều khoản
của định ước nầy phải được triều đình nước Đại Nam và
triều đình nước Pháp thông qua trong vòng 1 năm.
Ngày 11 tháng 5 â.l (7 tháng 6 d.l năm 1862), đoàn
sứ Đại Nam đi thuyền về, đến Huế vào ngày 14 tháng 6
â.l (10/6 d.l/1862).
*
Xem xong bản định ước 12 khoản, Tự Đức dã quở trách
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp và cho rằng 2 viên quan
nầy "không những là người có tội với triều đình
nhà Nguyễn mà còn mắc tội đối với nghìn muôn đời vậy!
" rồi đưa xuống cho đình thần bàn xét.
Sau khi bàn xét đình thần phúc tâu như sau: về khoản
cắt đất và trả tiền bồi thường chiến tranh thì Phan
Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đã thỏa thuận rồi nhưng phần
nhiều chưa hợp. Nhưng vì đây là một bản điều ước mới
định, nếu vội sửa đổi ngay, sợ họ còn tức khí, chưa
chắc đã nghe theo ngay. Xin đề nghị để 2 viên quan ấy
ở gần liên lạc với người Pháp bàn tính để họ châm chước
lần lần và cũng là để 2 viên quan đó có dịp chuộc lại
lỗi lầm đã nhượng đất và chịu trả quá nhiều tiền bồi
thường; đề nghị bắt tội họ vì không chu toàn trách nhiệm
được giao phó từ trước. Tự Đức cho rằng nếu bắt tội
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp thì không thể tìm được
người khác có khả năng như họ để nhận lãnh trách nhiệm
hoà nghị và do đó giao cho Phan Thanh Giản lãnh tổng
đốc Vĩnh Long, Phan Duy Thiếp (Hiệp) lãnh chức tuần
phủ Thuận- Khánh nhưng 2 người vẫn phải tiếp tục trách
vụ đàm phán với người Pháp để chuộc tội.
*
"Sự thế khó làm, trẫm đã biết hết rồi.", Tự
Đức và nhóm quan đại thần thủ cựu chậm tiến lơ láo nơi
triều đình Huế đã biết rõ tình thế không thể cứu vảng
được nữa vậy mà vẫn tiếp tục u mê đeo đuổi ý đồ vừa
ném đá dấu tay vừa đàm phán hòa bình với quân xâm lược.
Quân xâm lược đã thấy rõ được thực lực tồi tệ, chết
nhát của quân đội triều đình nhà Nguyễn, họ chiếm lấy
thành quách của nước Đại Nam như lấy đồ vật từ trong
túi áo, gót chân xâm lược của họ như đi vào chỗ không
người, vậy thì cần gì họ phải thương thuyết và nhượng
bộ. Việc triều đình Huế bao che và yểm trợ cho nhóm
dân quân kháng chiến làm sao có thể qua mắt được quân
xâm lược khi mà họ có những người dân bản xứ bị chính
quyền Đại Nam bách hại vì vấn đề đạo giáo theo về phía
họ để báo cáo, chỉ điểm, cung cấp tin tức những hoạt
động ngấm ngầm của nhóm quân kháng chiến được triều
đình Huế yểm trợ và bao che. Quân xâm lược cũng biết
tương kế tựu kế hoãn binh của triều đình Huế để dưỡng
binh và chờ đợi tăng viện để thực hiện thêm những bước
tiến quân về các vùng đất mới của Đại Nam. Họ có thiệt
hại về nhân mạng trong các trận chiến vừa qua, họ có
bị khốn đốn bệnh hoạn do thời khí gây ra nhưng với số
lực lượng hiện tại của họ cũng dư sức cầm chưng hoặc
đánh bại những nhóm giặc cỏ lẻ tẻ ô hợp, kém trang bị
mà sử sách cũ gọi là dân quân kháng chiến miền Nam nổi
dậy chống quân xâm lược cầm đầu bởi các quan chức địa
phương của triều đình Huế bị bại trận và đang bị quân
Pháp truy lùng khắp nơi. Sự hiện hữu của những nhóm
kháng chiến rời rạc, không có sự phối hợp, mà quân xâm
lược gọi là "đám giặc cướp" chính là cái cớ
rất hữu lý để quân xâm lược vinh vào đó hầu chiếm thêm
đất đai của nước Đại Nam sớm hơn dưới chiêu bài an ninh
tự vệ chính đáng.
*
"không những là người có tội với triều đình nhà
Nguyễn mà còn mắc tội đối với nghìn muôn đời vậy !"
rồi đưa xuống cho đình thần bàn xét.
*
Như vậy là ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Hiệp đã
bắt đầu mang tai tiếng, đã bắt đầu bị Tự Đức và nhóm
triều thần ngồi mát ăn bát vàng ở Huế quy một trọng
tội đối với triều đình và nghiêm trọng hơn nữa là mắc
tội đời đời với hậu thế.
Từ trước tới nay người ta không hiểu Tự Đức và mấy
ông quan mê ngủ chậm tiến hùa nhau đổ tội cho hai ông
Giản và ông Hiệp về tội gì? Tội bán nước cầu vinh? Tội
tự ý dâng đất nước cho giặc ngoại xâm? Tội đầu hàng
quân xâm luợc một cách vô điều kiện? Tội hèn nhát làm
nhục quốc thể vì không dám lớn tiếng tuyên chiến với
giặc Tây? Hay là lời kết tội của Tự Đức chỉ là một hình
thức cả vú lấp miệng em để khỏi mang tiếng với hậu thế
là một ông hoàng đế bất lực vô tài của dòng họ nhà Nguyễn
Phúc? Không lẽ Tự Đức và cái triều đình co ro ở Huế
không biết được một sự thật hàng cữu là kẻ thua trận
không có quyền đòi hỏi hoặc đặt điều kiện với kẻ chiến
thắng?
"Rồi đưa xuống đình thần bàn xét", họ bàn
xét cái gì? ĐNTLCB ghi vụ bàn xét nầy như sau: "Phúc
tấu là: về khoản cắt đất bồi ngân, 2 viên ấy đã làm,
phần nhiều chưa hợp. Nhưng điều ước mới định, nếu vội
sửa đổi ngay, sợ họ còn tức khí, chưa chắc đã nghe ngay.
Xin chuyên trách 2 viên ấy ở gần bàn tính châm chước
dần dần để chuộc lỗi trước, hãy đợi khi sai sứ tới hỏi,
nhân cơ mà châm chước nghĩ định. Nhưng lại cho là xếp
đặt không giỏi. Xin bắt tội. Vua nói: bây giờ há có
người hiền tài nào mà đổi hết được du? Bèn cho Thanh
Giản lãnh tổng đốc Vĩnh Long, Duy Thiếp (Hiệp) lãnh
tuần phủ Thuận - Khánh cùng với tướng nước Phú biện
bác để chuộc tội ." (ĐTLCB đã dẫn, trang 305)
Chương
13
"Phần nhiều chưa hợp" là sao? Thế nào mới
gọi là hợp? Theo tiêu chuẩn hoặc định mức nào? "Sợ
họ còn tức khí", "nhân cơ mà châm chước",
"xếp đặt không giỏi", sử quán nhà Nguyễn chỉ
cần ghi lại bấy nhiêu đó cũng đủ cho hậu thế thấy được
hình ảnh của những vị đại quan tá quốc vô tích sự của
triều đình nhà Nguyễn dưới quyền của một ông vua tối
ngày thơ phú văn chương, phung phí tài sản nhân lực
quốc gia, một tập đoàn phong kiến dốt nát về ngoại giao,
đui mù về kinh tế, hèn yếu run sợ không có đãm lược
khi phải đối phó trực diện với kẻ địch, không có một
đường lối chính sách quốc phòng rõ rệt mà chỉ biết áp
dụng phương cách thừa cơ, mưu mô xảo quyệt, kỳ kèo trả
giá của hạn con buôn trục lợi. Quân đội thì chỉ biết
áp dụng chiến thuật chưa đánh đã chạy cùng với chiến
lược bỏ thành, bỏ đất, bỏ dân cho địch kiềm tỏa. Một
ông hoàng đế như thế, với một bộ tham mưu như thế, với
một quân đội như thế thì nhiều lắm cũng chỉ đối phó
được với những nhóm nổi loạn đia phương hoặc hơn thêm
một chút thì chỉ có thể phùng xòe ăn hiếp vài nước nhỏ
láng giềng bán khai trên bán đảo Ấn Hoa chứ có thể nào
mà đối đầu nổi với các thế lực quân sự hùng mạnh của
thực dân Tây phương. Không phải đợi tới bây giờ triều
đình đình nhà Nguyễn mới gọi là thua mà đã thua từ khi
quân xâm lược Tây phương đánh phá và phong tỏa vụng
biển Đà Nẵng từ tháng 7 âl năm Mậu Ngọ (1858) và dưới
quyền cai trị của Tự Đức với đám hủ nho chậm tiến, bè
phái, ngủ mê tại triều đình Huế, nước Đại Nam, dân tộc
Đại Nam trước sau gì rồi cũng phải rơi vào ách thực
dân thuộc địa của phương Tây.
Có một điều nghịch lý là sau khi trút tội lên đầu lên
cổ người khác và kèm theo đề nghị trừng phạt, các ông
quân sư giỏi tài khua môi múa mép các truyện Nghiêu,
Thuấn, Hạ, Thương, Chu, tối ngày chỉ biết co ro khúm
núm cận kề bên cạnh Tự Đức thì lúc nầy lại co đầu rút
cổ chẳng có ông nào dám hùng hổ tình nguyện đứng ra
thế chỗ 2 ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp. Giả thử
lúc đó Tự Đức cứ chém đầu ông Phan Thanh Giản và ông
Lâm Duy Hiệp thì từ đó về sau sử quán triều Nguyễn sẽ
phải ghi chép như thế nào? Không phải Tự Đức không biết
rõ "tài năng hạng bét" của nhóm nho thần của
mình nơi triều đình Huế, cho nên khi họ xin bắt tội
ông Giản và ông Hiệp Tự Đức đã phải thốt lời rằng: "bây
giờ há có người hiền tài nào mà đổi hết được du?".
Khi thốt lời nầy, Tự Đức chấp nhận là khó có thể thay
những đòi hỏi của quân xâm lược và chẳng có ai có đủ
tài cán hơn hai ông Giản, Hiệp để đảm đương việc đôi
co thương lượng với người Pháp. Tự Đức cũng dư biết
trước rằng quân xâm lược sẽ không dừng chân sau khi
đòi hỏi của họ đã được triều đình tuân hành và đất đay
của nước Đại Nam sẽ còn tiếp tục rơi vào tay của họ
mà nguy cơ trước hết là tỉnh Vĩnh Long và 3 tỉnh còn
lại của miền Tây cho nên Tự Đức lại phải tiếp tục dùng
con chốt thí Phan Thanh Giản để trút tội và vì thế ông
Giản lại được giao phó lãnh tổng đốc Vĩnh Long.
Cũng có nhóm đại thần hủ nho chủ trương đánh tới cùng
nhưng họ chỉ đánh giặc miệng ngay tại triều đình Huế
chứ chẳng biết được một chút gì tình thế bên ngoài và
thời sự đang sôi sụt trong Nam Kỳ hạ. Đánh ư? Thì đã
đánh rồi còn gì, nhưng mà đánh đâu thua đó, chưa đủ
sao? Khi thanh nhàn phè phởn thì nấm giữ phẩm trật cao
trọng đứng đầu triều chính như Trương Đăng Quế nhưng
đến lúc nước nhà ngữa nghiêng thì lại vội vàng xin về
dưỡng hưu để trốn tránh trách nhiệm.
Một người khác thay thế ông Giản mà vẫn thất bại thì
sao? Lại tìm một người khác thay thế và nếu vẫn thất
bại- mà điều nầy là chắc chắn- thì rõ ràng không phải
là tại người thương thuyết bất tài vô trách nhiệm và
như vậy thì tội làm mất dân mất đất đâu còn ai để gánh
chịu nếu không phải là Tự Đức và nhóm đại thần hùa nịnh
ở Huế. Vậy thì tại sao lại phải cử người khác thay thế
ông Giản. Nham hiểm độc ác là ở chỗ đó.
Cứu dân, cứu nước, mới nghe qua thì thật là ái quốc
thương nòi nhưng nếu xét cho thật kỹ thì sẽ thấy rằng
sự nóng lòng của Tự Đức trước việc để mất đất đai ở
Nam Kỳ hạ không phải được thúc đẫy bởi lòng yêu nước
chân chính của một người lãnh đạo quốc gia nhưng vì
ở vùng đất nầy có nhiều ràng buộc tình cảm lâu đời của
tông tộc nhà Nguyễn Phúc. Do đó, có thể nói là bằng
mọi giá, Tự Đức phải lấy lại cho bằng được những phần
đất hiện đang bị quân xâm lược chiếm giữ kể cả phải
hy sinh xương máu một cách vô ích binh sĩ của triều
đình cũng như dùng chiêu bài ứng nghĩa để khích động
dân chúng nổi dậy kháng chiến chống Pháp.
*
"Về khoản cắt đất bồi ngân, hai viên ấy đã làm,
phần nhiều chưa hợp . . .", đây là ý kiến của mấy
ông quan đại thần tai to mặt lớn trong cơ quan Cơ Mật
Viện mà thâm ý ác độc gán tội cho người khác đã hiện
rõ ràng: Ai cắt đất bồi ngân? Cắt đất nào, ở đâu? Phải
chăng là Sài Gòn, Gia Định, Biên Hòa, Mỹ Tho, Vĩnh Long?
Xin thưa: các vùng lãnh thổ nầy có còn thuộc quyền
kiểm soát của triều đình Huế nữa đâu để mà cắt với xén!
Bồi ngân? Ai đã xin chuộc đất bằng tiền, ai ấn định
khoản tiền chuộc và chi phí chiến tranh? Xin thưa: không
phải là do hai ông Giản và ông Hiệp tự ý đứng ra làm
việc đó và nếu hai ông ấy có ý muốn làm như thế thì
cũng chẳng thể được vì hai ông chỉ là đại diện của một
triều đình chiến bại đến cầu xin ân huệ của một kẻ xâm
lăng thắng trận! Kẻ chiến thắng ra điều kiện, kẻ chiến
bại không có quyền đặt điều kiện, đó là một sự thật
phủ phàng đã có từ ngàn xưa!
*
C/ - Nội dung của định ước năm Nhâm Tuất (1862)
Nguyên văn bản định ước năm Nhâm Tuất (1862) bằng tiếng
Pháp như sau:
Chương 14
C/ - Nội dung của định ước năm Nhâm Tuất (1862)
Nguyên văn bản định ước năm Nhâm Tuất (1862) bằng tiếng
Pháp như sau:
Traité de paix et d' amitié conclu à Saigon, le 5 juin
1862, entre la France et l' Espagne, d' une part, et
le Royaume d'Annam, d' autre part.
Leurs Majestés Napoléon III, Empereur des Français,
Isabelle II, Reine d' Espagne, et Tự Đức, Roi d' Annam,
désirant vivement que l' accord le plus parfait règne
désormais entre les trois nations de France, d' Espagne
et d' Annam; voulant aussi que jamais l'amitié ni la
paix ne soient rompues entre elles; à ces causes:
Nous, Louis-Adolphe Bonard, Contre Amiral, Commandant
en chef le corps expéditionaire Franco-Espagnol en Cochinchine,
Ministre Plénipotentière de S.M. l' Empereur des Français,
commandeur des ordres impériaux de la Légion d' honneur
et de Saint-Stanislas de Russie, commandeur de Saint-Grégoire-le-Grand
de Rome, et chavalier de l' ordre royal de Charles III
d' Espagne,
Don Carlos Palanca-Gutierres, colonel commandant général
du corps expéditionaire Espagnol en Cochinchine, commandeur
de l' ordre royal américain d' Isabelle la Catholique,
et de l' ordre impérial de la Légion d' honneur, chevalier
des ordres royaux et militaires de Saint-Ferdinand et
Saint-Herménégilde, Ministre Plénipotentiare de S. M.
Dona Isabelle II, Reine des Espagnes,
Et nous, Phan Thanh Giản, Vice-Grand-Censeur du royaume
d'Annam, Ministre Président du Tribunal des Rites, Envoyé
Plénipotentiaires de S. M. Tự Đức, assisté de Lâm-Duy-Hiệp,
Ministre President du Tribunal de la Guerre, Envoyé
Plénipotentiares de S. M. Tự Đức;
Tout munis de pleins et entiers pouvoirs pour traiter
de la paix et agir selon notre conscience et volonté,nos
sommes réunis, et, après avoir échangé nos lettres de
créance, que nous avons trouvées en bonne et due forme,
nous sommes convenus, d' un commun
accord, de chacun des articles qui suivent et qui composent
le Traité de paix et d' amitié.
Article premier - Il y aura dorénavant paix perpétuelle
entre l' Empereur des Français et la Reine d' Espagne
d' une part, et le Roi d' Annam, de l' autre; l' amitié
sera complète et égallement perpétuelle entre les sujets
des trois nations, en quelque lieu qu' ils se trouvent.
Art 2. - Les sujets des deux nations de France et d'
Espagne pourront exercer le culte chrétien dans lr Royaume
d' Annam, et les sujets de ce Royaume, san distinction,
qui désirent ambrasser la réligion chrétienne, le pourront
librement et san contrainte; mais on ne forcera pas
à se faire chrétiens ceux qui n' en auront pas le désir.
Art 3. - Les trois provinces complètes de Biên Hòa,
de Gia Định et de Định Tường (Mỷ-Tho) ainsi que l' ile
de Poulo-Condore, sont cédées entièrement par ce Traité
en toute souveraineté à sa Majesté l' Empereur des Français.
En outre, les commerçants Français pourront librement
commercer et circuler sur des bâtiments quels qu' ils
soient, dans le grand fleuve du Cambodge et dans tous
les bras de ce fleuve; il en sera de de même pour les
bâtiments de guerre Français envoyés en survoyance dans
ce même fleuve ou dans ses affluents.
Art 4. - La paix étant faite, si une nation étrangée
voulait, soit en usant de provocation, soit par un Traité,
se faire céder une partie du territoire d' Annam, le
Roi d' Annam préviendra, par un Envoyé, l' Empereur
des Français , afin de lui soumettre le cas qui se présente,
en laissant à l' Empereur pleine liberté de venir en
aide ou non au Royaume d' Annam; mais si, dans ledit
Traité avec la nation étrangère, il est question de
cession de territoire, cette cession ne porra être sanctionné
qu' avec le consentement de l'Empereur des Français.
Art 5. - Les sujets de l' Empire de France et du Royaume
d'Espagne pourront librement commercer dans les trois
ports de Tourane, Ba-Lác et Quảng-An. Les sujets Annamites
pourront également librement commercer dans les ports
de France ou d'Espagne,en se conformant toutefois à
la règle des droits établis.
Si un pays étranger fait du commerce avec le Royaume
d'Annam, les sujets de ce pays étranger ne pourront
pas jouir d'une protection plus grande que ceux de France
ou d' Espagne, et si ce dit pays étranger obtient un
avantage dans le Royaume d'Annam, ce ne pourra jamais
être un avantage plus considérable que ceux accordés
à la France ou à l' Espagne.
Art 6. - La paix étant faite, s' il y a à traiter quelque
affaire importante,les trois Souverains pourront envoyer
des présentations pour traiter ces affaires dans une
des trois capitales. Si, dans une affaire importante,
l' un des trois Souverains désirait envoyer des félicitations
aux autres, il pourra également envoyer un représentant.
Le bâtiment de l' envoyé Français ou Espagnol mouillera
dans le port de Tourane, et l' envoyé ira de là à Huế
par terre, où il sera reçu par le Roi d' Annam.
Art 7. - La paix étant faite, l' inimitié disparait
entièrement; c'est pourqoi l' Empereur des Français
accorde une amnestie générale aux sujets soit militaires,
soit civils du Royaume d' Annam compromis dans la guerre,
et leurs propriétés séquestrés leur seront rendues.
Le Roi d' Annam accorde également une amnestie générale
à ceux de ses sujets qui se sont soumis à l' autorité
Française, et son amnestie s' étend sur eux et sur leurs
familles.
Art 8. - Le Roi d'Annam devra payer à titrte d' indemnité,
dans un laps de dix ans, la somme de quatre millions
de dollars. Quatre cent mille dollars seront, en conséquence,
remis chaque année au représentant de l' Empereur des
Français à Saigon. Cette somme est destinée à indemniser
la France et l' Espagne de leurs dépenses de guerre.
Les cent mille ligatures déjà payées seront déduites
de cette somme. Le Royaume d' Annam n' ayant pas de
dollars, le dollar sera représenté par une valeur de
soxante et douze centième de taël.
Art 9. - Si quelque brigand, pirate, ou fauteur de
troubles, Annamite, comme quelque brigandage ou désordre
sur le territoire Français, ou si quelque sujet européen,
coupable de quelque délit, s' enfuit sur le territoire
Annamite, aussitôt que l' autorité Française aura donné
la connaissance du fait à l' autorité Annamite, celle
ci devra faire ses efforts pour s' emparer du coupable
afin de le livrer à l' autorité Française. Il en sera
de même en ce qui concerne les brigands, pirates ou
fauteurs de troubles, Annamites, qui, après s'êtrte
rendus coupable de délits, s' enfuiraient sur le territoire
Français.
Art 10. - Les habitants des trois provinces de Vỉnh-Long,
d' An Giang et de Hà-Tiên pourront librement commercer
dans les trois provinces Françaises en se soumettant
aux droits en vigueur; mais les convois de troupes,
d' armes, de munitions ou de vivres entr les trois susdites
provinces devront se faire exclusivement par mer. Cependant
l' Empereur des Français permet à cet convois d'entrer
dans le Cambodgepar la passe de Mỹ-Tho dite Cửa-Tiễu,
à la condition toutefois que les autorités Annamites
en préviendront à l'avance le présentant de l' Empereur,
qui leur fera délivrer un laissez-passer. Si cette formalité
était négligée et qu' un convoi entrât sans un permis,
ledit convoi et le compose seront de bonne prise, et
les objets saisis seront détruits.
Art 11. - La citadelle de Vỉnh-Long sera gardée jusqu'
à nouvel ordre par les troupes Françises, sans empêcher
pourtant en aucune façon l' action des Mandarins Annamites.
Cette citadelle sers redue au Roi d' Annam aussitôt
qu' il aura mis fin à la rébelion qui existe aujourd'hui
par ses ordres dans les provinces de Gia-Định et de
Định-Tường, et lorsque les chefs de ces rebelionsseronts
partis et le pays tranquille et soumis comme il convient
à un pays en paix.
Art 12. - Ce Traité étant conclu entre les trois nations,
et les Ministres Plénipotentiares des dites trois nations
l' ayant signé et revêtu de leurs sceaux, ils en rendront
compte chacun à son Souverain, et, à partit d' aujourd'hui,
jour de la signature, dans l' intervalle d' un an, les
Trois Souverains ayant examiné et ratifié ledit Traité,
l' echange des ratifications aur lieu dans la capitale
du Royaume d' Annam.
En foi de quoi, les Plénipotentiaires respectifs susnommés
ont signé le présent Traité et y ont apposé leurs cachets.
A Saigon, l' an 1862, le 5 Juin.
Tự Đức, 15è année, 5è mois, 9è jour.
Bonard Carlos Palanca-Guitierres
(Cachets et signatures des Plénipotentiaires Annamites).
(A. Shreiner; sách Abrégé de l' Histoire d' ANNAM;
đã dẫn; trang 443, 444,445,446).
*
Sau đây là nội dung của định ước năm Nhâm Tuất (1862)
do một tác giả Việt Nam là Lê Thanh Cảnh viết bằng chữ
Pháp đăng trên tập chí Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH
vào năm 1937:
Voici les douze clauses de ce traité :
Chương
15
Sau đây là nội dung của định ước
năm Nhâm Tuất (1862) do một tác giả Việt Nam là Lê Thanh
Cảnh viết bằng chữ Pháp đăng trên tập chí Đô Thành Hiếu
Cổ Tập San - BAVH vào năm 1937:
Voici les douze clauses de ce traité :
1) Ce traité inaugure une ère de concorde et d’amitié
entre les trois pays: le grand Phú (la France), le Grand
Y (l’Espagne) et le grand Empire du Sud Pacifié (l’Annam).
2) Le libre exercice du culte catholique sera promulgué
surtout le territoire annamite, sans contrainte, ni
entrave.
3) Les trois provinces orientales Biên-Hoà Gia-Định
et Định Tường ainsi que l'Ile de Poulo-Condore, seront
cédées à la France. En outre, aucune entrave ne sera
faite aux bateaux de petit et de grand tonnage français
qui, venant des mers, emprunteront les voies fluviales
annamites pour aller commercer au Cambodge ; même liberté
sera réservée aux canonnières et aux escadres françaises
qui remonteront les cours d’eau d’Annam pour des explorations
et des reconnaissances diverses.
4) Après la signature du traité, si des conflits éclataient
entre l’Annam et une autre puissance, et qu e celui-ci,
vaincu, désirât céder à la puissance étrangère quelques
points de son territoire, il devrait d’abord en référer
à la France dont le consentement en ce cas seraitindispensable.
Elle se conserve le droit d’opposer son veto, si elle
considérait que ces éventualités de concessions pourraient
porter préjudice à ses intérêts.
5) Les commerçants français et espagnols qui iraient
commercer dans les ports de Tourane, Bà-Lạt et Quảng-Yên
devront jouir d’une sécurité et d’une liberté absolues.
Ils paieront toutes les taxes afférentes à l’administration
annamite. La même réciprocité sera faite aux commerçants
annamites qui viendraient en France et en Espagne, à
charge que ces derniers s’acquittent des taxes et impositions
en vigueur dans ces deux pays.
Au cas où des commerçants originaires d’une puissance
autre que les deux puissances traitantes viendraient
en Annam et que celui-ci leur accorde des tarifs et
des traitements de faveur, ces dispositions devraient
s’étendre également aux commerçants français et espagnols.
6) En cas de nécessité et si une conférence entre les
3 nations s’imposait, chacun des pays signataires désignerait
des représentants qui se réuniraient soit dans la Capitale
de l’Annam, soit dans celle de France ou d’Espagne.
En temps ordinaire des messages d’amitié et des relations
cordiales ainsi que des visites de courtoisie pourront
être échangés entre les nations amies. Chaque fois qu’un
représentant français ou espagnol viendra en Annam,
le navire qui le transportera, viendra relâcher à Tourane
et le reste du trajet de Tourane à la Capitale se fera
par voie de terre.
7) Aucune animosité ne subsistera entre les trois pays
alliés après la signature du traité. Les soldats et
les sujets annamites qui ont été faits prisonniers par
les armées françaises au cours des engagements seront
remis en liberté. Les butins et les biens prélevés sur
certains villages pendant la guerre seront retournés
à leurs possesseurs légitimes. En retour, ceux des Annamites
qui, d’une manière ou d’une autre, ont rendu des services
à la cause française, seront graciés ainsi que leur
famille.
8) Une indemnité de 4 millions de piastres sera payée
par l’Annam à la France et à l’Espagne. Elle sera payable
en dix annuités, à raison de 400.000$ chacune, et sera
versée entre les mains du représentant français à Gia-Định
Un versement de 100.000$ en sapèques ayant été fait,
les dix versements annuels seront grevés d’une réduction
de 2%.
9) Si des Annamites, après s’être affiliés avec les
pirates pour venir ravager les territoires placés sous
le mandat français, revenaient chercher refuge dans
les provinces de l’Annam, et si des criminels de droit
commun français ou européens venaient chercher asile
en territoire annamite, le Gouvernement français pourrait,
par la voie de son représentant en Annam, réclamer l’extradition
desdits coupables pour les mettre à la disposition de
la justice française. De même, si des prisonniers et
des rebelles annamites allaient se cacher en France,
les mandarins annamites pourraient s’entendre avec le
représentant de la France à Gia-Dinh pour réclamer leur
extradition afin de les confier au jugement des tribunaux
annamites.
10) Après la signature du traité, les originaires des
trois provinces occidentales: Vĩnh-Long An-Giang, Hà-Tiên,
pourront facultativement venir chercher à gagner leur
vie sur les territoires gouvernés par la France Gia-Định,
Định-Tường, Biên-Hoà).
La seule condition exigée d’eux est de payer leurs
impôts à l’administration française du lieu. Si, pour
ses affaires personnelles, l’Annam désire faire passer
transitoirement à travers les territoires d’occupation
française : soldats, armes, munitions, il doit en demander
l’autorisation préalable à l’administration française,
laquelle autorisation est de rigueur, faute de quoi
le Gouvernement français, chaque fois qu’il aura connaissance
d’un de ces transits frauduleux et illicites, enverrait
la force armée pour sévir contre.
11) Les Français, bien qu’occupant actuellement Vĩnh-Long
consentiront à rendre cette province au Gouvernement
annamite et à ne pas s’immiscer dans les affaires indigènes
dont ils laisseront le contrôle et l’administration
aux autorités annamites, à condition que les résidants
français qui se sont fixés à Vĩnh-Long jouissent d’une
sécurité absolue. Il est demandé en outre que les mandarins
envoyés par la Cour d’Annam avant et pendant les hostililés
pour diriger les opérations militaires et préparer la
revanche, et qui se tiennent actuellement cachés aux
environs des provinces occupées, soient rappelés dans
le plus bref délai, car la guerre est complètement terminée
et leur présence sur les lieux ne peut qu’amener des
conflits inévitables. Moyennant toutes ces conditions,
la France fera le retour de Vĩnh-Long à l’Annam.
12) Les grandes lignes de ces accords ainsi établies
et fixées, les plénipotentiaires des trois pays traitant
y apposeront leurs signatures et leurs sceaux respectifs.
Elles seront soumises ensuite à la ratification des
Souverains des nations intéressées. Ce traité sera considéré
comme entrant en vigueur à compter du jour où les signatures
et les cachets des représentants des trois pays y seront
apposés. Dans le délai d’un an et après la ratification
des souverains, des lettres de créance seront échangées
dans la Capitale annamite pour servir et faire valoir
ce que de droit.
(Lê Thanh Cảnh; Notes pour Servir à l'Histoire de l'Établissement
du Protectoral Français en Annam, trang 382, 383,384,385;
Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH - số 4 -tháng 10 - 12
năm 1937).
*
- Định ước năm Nhâm Tuất (1862) do Sử quán triều Nguyễn
ghi chép trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên
<< Vua nói:" Thương thay con đỏ của lịch
triều, nào có tội gì? Rất là đau lòng. Hai viên nầy
không những là người có tội của bản triều mà là người
có tội của nghìn muôn đời vậy! ".
<< 12 khoản là:
- Từ sau khi vua 2 nước Phú-lãng-sa và Y-pha-Nho với
vua nước Đại Nam cùng dân của 3 nước, không kể người
nào với địa phương nào, đều cùng đôn đốc hữu nghị, hòa
hảo lâu dài.
- Hai nước Phú và Y truyền đạo thiên chúa ở nước Đại
Nam, ai muốn theo cũng cho, ai không theo cũng không
bắt buộc.
- Về 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và 1 xứ
đảo Côn Lôn giao cho nước Phú quản hạt. Như người buôn
bán của nước Phú chạy tàu, thuyền lớn nhỏ từ biển khơi
đến các sông lớn, sông nhỏ đi sang các xứ nước Cao Miên
buôn bán, đều được tùy tiện. Nếu tàu nhà binh của nước
Phú do tự ngoài khơi ấy đi vào các sông xem xét cũng
cho tùy tiện.
- Từ sau khi nghị hòa, nếu có nước khác muốn đến nước
Nam gây sự, hoặc muốn cắt đất giảng hòa, nên báo tin
cho nước Phú tính bàn, tùy nghi cùng giúp đỡ. Về trong
khoản giảng hòa với nước khác mà có sự cắt đất, nếu
nước Phú bằng lòng làm thì làm, không bằng lòng thì
bất tất làm.
- Người buôn ở 2 nước Phú, Y đến buôn bán ở 3 cửa biển
Đà-Nẵng, Ba-Lạt, Quảng-Yên, đều nên đây đó cùng yên,
cho được tùy tiện, về thuế lệ của nước Nam phải chiểu
lệ mà giao nộp. Nếu người buôn của nước Nam có muốn
đi sang buôn bán ở 2 nước Phú, Y, cũng được đây đó cùng
yên, đều cho tùy tiện, y theo thuế lệ của 2 nước ấy
mà nộp. Nếu người nước khác đến buôn ở nước Nam, thì
các quan nước Nam không được tư vị giúp đỡ hơn là 2
nước Phú, Y. Nếu có sự ích lợi buôn bán gì thi hành
cho nước khác, thì cũng thi hành cho cả một loạt cho
2 nước Phú, Y.
- Nếu có việc công khẩn yếu mà cần phải hội đồng bàn
bạc để làm thì đều phái ra viên khâm sai đại thần, hoặc
họp ở kinh đô nước Nam, hoặc họp ở kinh thành 2 nước
[Phú và Y] để bàn mới được. Nếu không phải là nhân việc
công mà 3 nước sai sứ đến hỏi thăm nhau cũng được. Nhưng
tàu của 2 nước Phú, Y đến cửa biển Đà Nẵng thì cho tàu
dừng đậu, viên khâm sứ phải do đường bộ tiến vào Kinh.
- Sau khi đã hòa ước rồi, thì những điều thù oán cũ
đều vất bỏ đi hết. Phàm quân dân người nào bị nước Phú
bắt giam đều tha cho vệ Tài sản của trăm họ cũng đều
trả lại cả. Những người nước Nam có đi làm việc cho
người nước Phú nước Nam cũng nên đặc ân tha cho họ và
không bắt tội đến thân thuộc họ.
- Bồi lại số bạc chi phí về quân nhu cho 2 nước Phú,
Y là 400 vạn đồng, chia trả làm 10 năm cho đủ, mỗi năm
giao cho viên đại thần nước Phú đóng ở Gia Định 40 vạn
đồng chứa giữ. Nay đã nhận được 10 vạn quan tiền kẽm,
đợ sau giao bạc sẽ khấu trừ đi, mỗi đồng bạc nặng là
7 đồng cân 2 phân.
- Nước Nam như có những giặc cướp, giặc biển, những
kẻ làm loạn, quấy rối ở địa phương thuộc về nước Phú
mà trốn về địa phương nước Nam, hay tù phạm giặc cướp
của nước Phú trốn sang địa phương nước Nam, thì quan
nước Phú lập tức tư cho quan địa phương nước Nam ở nơi
tên can phạm ẩn trốn ấy bắt giải giao cho địa phương
nước Phú tri tội. Nếu có bọn cướp giặc, bọn can phạm
của nước Nam trốn ở địa phương thuộc về nước Phú, thì
quan nước Nam cũng tư cho quan nước Phú biết, bắt bọn
tội phạm ấy giao cho quan địa phương nước Nam trị tội.
-Từ sau nghị hòa rồi, phàm nhân dân ở 3 tỉnh Vĩnh-Long,
An-Giang, Hà-Tiên đi lại buôn bán ở địa phương thuộc
về nước Phú, về thuế lệ của nước Phú đã theo lệ nộp
rồi, thì đều được tùy tiện. Nếu nhân có việc công hoặc
các việc quân lính, lương thực, súng đạn, khí giới mọi
vật, muốn qua lại cửa biển Tiểu ở Định-Tường thuộc về
đất của nước Phú, thì Phú-lãng-sa cũng chuẩn cho đi.-
Nhưng tất phải trước 10 hôm quan nước Nam phải tư báo
cho quan nước Phú biết trước để cấp phiếu cho đi. Nếu
không báo trước, lại không có giấy chứng thực của quan
nước Phú mà tự tiện đi lại riêng lén, quan nước Phu
xét biết, nhất định đem thuyền ấy phá tan và quân lính
đều bắt giữ trị tội.
- Tỉnh Vĩnh-Long hiện đã về phần sở hữu của nước Phú,
nay tạm làm nơi đóng quân. Nhưng quan quân nước Phú
tuy đóng ở Vĩnh-Long, nhưng phàm việc nào thuộc về nước
Nam, do quan nước Nam xử lý, thì quan binh nước Phú
không chen vào kiêm làm, cùng là các việc cấm răn cũng
vậy. Duy nước Nam hiện còn có các quan vâng mệnh dò
thám riêng, để thừa cơ tiến đánh vẫn ẩn nấp ở 2 tỉnh
Gia-Định, Định-Tường. Hiện nay đã cho nghĩ việc binh,
lại lập hòa ước, thì nước Nam tất phải cho gọi những
bọn quan viên ấy về, để cho nhân dân địa phương ấy đều
được bình an, thì nước Phú lập tức đem tỉnh Vĩnh-Long
giao trả về nước Nam cai quản.
- Phàm sau khi chương trình hòa ước đã lập rồi, quan
đại thần 3 nước ký tên đóng dấu tâu lên. Tính tự ngày
ký tên đóng dấu là bắt đầu, hạn trong một năm thì vua
3 nước coi xem phê chuẩn, rồi giao cho nhau ở tại kinh
thành nước Nam để lưu chiểu>>. (Đại Nam Thực Lục
Chánh Biên - Quyển XXVI; bản dịch đã dẫn; trang 302,
303, 304,305).
*
V/ Tại sao phải đưa ra 3 bản định
ước năm Nhâm Tuất (1862) khác nhau từ 3 nguồn thư tịch
khác nhau?
Chương
16
Tại sao phải đưa ra 3
bản định ước năm Nhâm Tuất (1862) từ 3 nguồn thư tịch
khác nhau?
Thực ra thì phải nói là có 5 bản định ước năm Nhâm Tuất
(1862) mới hợp lý bởi vì ở đây còn thiếu 2 bản định
ước chính gốc: một do chính quyền nước Pháp lưu giữ
và một do chính quyền Đại Nam lưu giữ. Hai bản gốc nầy
có thể được viết bằng 2 loại chữ viết Pháp-Hán và bản
văn chữ Hán có thể đã được đưa vào ĐNTLCB. Cũng có thể
là định ước nầy chỉ được viết bằng Pháp ngữ và 12 khoản
kê ra trong ĐNTLCB chỉ là phần dịch thuật từ bản văn
chữ Pháp hoặc là đã được viết lại trong ĐNTLCB theo
lời báo cáo hay phúc trình của phái đoàn nghị ước Phan
Thanh Giản - Lâm Duy Hiệp.
Bản văn của tác giả Lê Thanh Cảnh kê khai 12 điều khoản
của định ước năm Nhâm Tuất có thể đã phỏng theo những
kê khai trong ĐNTLCB viết bằng chữ Hán để viết lại bằng
chữ Pháp đăng lên tập chí Đô Thành Hiếu Cổ Tập San vào
năm 1937. NQS dùng chữ Kê Khai bởi vì trong ĐNTLCB không
có đánh số rõ ràng từ điều khoản số 1 đến điều khoản
số 12 nhưng trong bản văn bằng chữ Pháp của tác giả
người Việt Nam Lê Thanh Cảnh lại có đánh số từng điều
khoản, từ số 1 đế số 12. Hoặc là tác giả Lê Thanh Cảnh
đã dựa vào một bản định ước bằng chữ Hán mà trong đó
có đánh số những điều khoản từ số 1 đến số 12?
Vào thời điểm năm 1937 tức là vào lúc Lê Thanh Cảnh
viết một loạt bài bằng tiếng Pháp đăng trên Đô Thành
Hiếu Cổ Tập San thì những người Pháp chính gốc và những
người Việt Nam theo Tây học như Lê Thanh Cảnh nhất định
là đã có thể đọc được bản định ước năm Nhâm Tuất với
bản văn chữ Pháp đã có từ năm 1862 chứ không phải đợi
cho đến khi có những bài viết bằng Pháp văn của tác
giả Lê Thanh Cảnh thì họ mới biết được nội dung của
12 điều khoản trong định ước đó.
Câu hỏi đặt ra: chắc gì những người Pháp hoặc những
người Việt Nam như Lê Thanh Cảnh có thể tìm ra được
bản gốc hay bản sao y chính bản định ước năm Nhâm Tuất?
Xin thưa: bản sao của định ước năm Nhâm Tuất (1862)
bằng chữ Pháp đã được tác giả Alfred Schreiner sao y
trong sách Abrégée de l'Histoire d'Annam: sách nầy được
xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1906, nhà xuất bản Chez
l' Auteur: 37, rue de Bankok, Saigon. Không lý một người
ghi chép các sự kiện lịch sử như Lê Thanh Cảnh lại không
biết có một bản sao y định ước đó để rồi lại đi làm
một việc dư thừa hay sao!
Câu hỏi lại đặt ra: chắc gì bản sao y định ước năm
Nhâm Tuất (1862) trong sách của A.Schreiner là bản nguyên
thủy bằng Pháp văn ? Điều nầy thì xin nhờ những đọc
giả đang ở Pháp hoặc các đọc giả Việt Nam, ở khắp nơi
trong và ngoài nước truy cứu thêm.
Nhưng tại sao lại chỉ căn cứ vào bản sao y của A. Schreiner
mà không dựa vào các thư tịch của những tác giả người
Pháp khác, cùng một thời với Bonard, cũng có ghi chép
về định ước năm Nhâm Tuất (1862) hoặc có viết về Phan
Thanh Giản chẳng hạn như Paulin Vial, La Grandière,
E. Luro., A.Dalvaux, Palanca Gutierrez, Aubaret . .
.? Bởi vì những tác giả người Pháp, Y Pha Nho nầy đều
có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp vào chiến cuộc giữa
nước Đại Nam và đoàn quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho và
do đó tính cách khách quan và trung thực trong khi họ
viết lách có thể thiên vị hoặc bóp méo theo thói thường
"Phủ bênh Phủ, Huyện bênh Huyện". Nhưng chắc
gì A. Schreiner không thiên vị và khách quan? Đúng!
Tuy nhiên bản sao định ước năm Nhâm Tuất (1862) do A.Schreiner
sao chép lại thì có thể tạm tin được bởi vì chính một
tác giả người Pháp khác H.Cossérat vào năm 1933 trong
một bài viết đăng trên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/Bulletin
des Amis du Vieux Hué (viết tắt BAVH: Những Người Bạn
Thân của Cố đô Huế) ) có tựa đề là La Citadelle de Huế-
Cartographie có dẫn chiếu điều thứ 12 của bản định ước
Nhâm Tuất (1862) và điều thứ 12 nầy trong bài viết của
Cossérat cũng giống như điều 12 chép ra trong sách của
A.Schreiner.
(ĐTHCTS-BAVH-1933; trang 40; chú giải 2: "(2)
C’est l’article 12 du traité qui imposait cette condition.
Voici cet article :
Traité de paix conclu entre Sa Majesté l’Empereur des
Français et le Roi d’Annam.
Art. 12.— Ce traité étant conclu entre les trois nations,
et les ministres plénipotentiaires desdites trois nations
l’ayant signé et revêtu de leurs sceaux, ils en rendront
compte chacun à leur Souverain, et à partir d’aujourd’hui,
jour de la signature, dans l’intervalle d’un an, les
trois Souverains ayant examiné et ratifié ledit traité,
l’échange des ratifications aura lieu dans la Capitale
du Royaume d’Annam. En foi de quoi les Plénipotentiaires
respectifs susnommés ont signé le présent traité et
y ont apposé leurs cachets.
A Saigon, l’an mil huit cent soixante-deux, le 5 juin,
Tu-Ðuc quinzième année, cinquième mois, neuvième jour.
Signé : Bonard, Carlos Palanca Guttierrez, Phan-Tanh-Gian
et Lam-
Gien-Thiêp").
*Lưu ý: tên của 2 sứ thần Đại Nam
được viết là Phan-Tanh-Gian và Lam-Gien-Thiep).
*
Tất cả những nghi vấn nêu ra ở phần trên để cho thấy
rằng:
-Người ta không thể chỉ riêng căn cứ vào một nguồn
thư tịch duy nhất nào để đánh giá hoặc suy diễn một
sự kiện hay một nhân vật lịch sử thuộc một giai đoạn
trong quá khứ nhất là nguồn thư tịch do chính quyền
trong giai đoạn đó ấn hành.
-Trong việc ký kết định ước năm Nhâm Tuất (1862), nếu
định ước nầy chỉ được viết bằng Pháp ngữ thì liệu rằng
đoàn sứ Phan Thanh Giản - Lâm Duy Hiệp có hiểu rõ nội
dung của 12 điều khoản trước khi đặt bút ký tên và đóng
dấu hay không? Phan Thanh Giản có bị lầm lẫn vì ngôn
ngữ bất đồng hay không?
-Nếu có một bản định ước bằng chữ Hán, có cùng một
hình thức với bản văn chữ Pháp, nhưng phần nội dung
thì những người phụ trách viết bản văn chữ Hán nầy có
phản ảnh đúng ý nghĩa với nội dung của bản văn chữ Pháp
không? Hay là đã xảy ra tình trạng "ông nói gà,
bà nói vịt" qua trung gian của những thông ngôn
và thông dịch viên bất đắc dĩ và không có khả năng.
Cũng cần lưu ý rằng, để chuẩn bị cho việc giao dịch
với liên quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho, vào tháng Giêng
năm Nhâm Tuất (1862), Tự Đức đã ra lệnh tuyển duyệt
để trưng dụng những người am hiểu chữ Tây và tiếng Tây.
Tỉnh thần Nghệ An và tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng đem một
người tên là Nguyễn Trọng, (người gốc Nghệ An, nguyên
theo sang Tây, nói rằng chữ nước ấy có 27 chữ cái, nhân
đó gia thêm vào mới thành chữ khác), và Nguyễn Văn Thự
(dân đi đạo bị giam tù ở Lạng Sơn) tâu lên. Vua sai
đưa về bộ sát hạch (ĐTLCB; đã dẫn; q.XXVI; trang 281).
Nếu chỉ căn cứ trên những khả năng như thế để tuyển
chọn 2 người nầy làm thông ngôn và thông dịch cho một
cuộc đàm phán quan trọng có ảnh hưởng đến việc sống
còn của đất nước Đại Nam thì rõ ràng là Tự Đức và triều
đình Huế đã làm một việc tắc trách đáng bị hậu thế phê
phán. Phải chăng sử quán triều Nguyễn đã đưa ra hai
người thông ngôn nầy để dọn đường đổ tội cho người khác
làm mất đất đai của Đại Vương Quốc Việt Nam (Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa) chứ không phải là do lỗi của Tự
Đức hay do lỗi của những đại thần thủ cựu chậm tiến
trong Cơ Mật Viện ở Huế cận kề ngày đêm vây quanh Tự
Đức để ngồi mát ăn bát vàng, chỉ biết đối phó với quân
xâm lăng bằng miệng và lệnh truyền? Có một con vật tế
thần trong vụ ký kết hoà ước năm Nhâm Tuất để che lắp
khả năng yếu kém cai trị của Tự Đức về mặt đối ngoại
cũng như để che đậy lòng yêu thương giả dối của Tự Đức
đối với tổ quốc và nhân dân Đại Nam. Con vật tế thần
đó là ông Phan Thanh Giản.
Chương
17
III/ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỬA SAU CỦA TỰ ĐỨC VÀ TRIỀU
ĐÌNH HUẾ
Sau khi đánh chiếm tỉnh thành Bà Rịa, Bonard đã cho
khởi công xây cất một hải đăng tại Vũng Tàu vào ngày
25 tháng 3 d.l năm 1862 và khánh thành vào ngày 15 tháng
8 d.l năm 1862 trên một ngọn núi cao 147 mét và rọi
ra ngoài biển với một tầm xa 33 hải lý.
Cũng vào những tháng dương lịch đầu năm 1862, các trạm
bưu điện và các đường dây điện thoại đã được người Pháp
thiết đặt để nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn rồi kế tiếp
nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn với Biên Hòa, Bà Rịa, Vũng
Tàu.
Đầu năm dương lịch 1863, đã có 9 trạm vô tuyến viễn
thông và một mạng lưới đường dây điện thoại dài tổng
cộng 300 cây số ngàn nối liền trung tâm bưu điện đặt
trước dinh tạm của thống đốc Pháp với các nơi. Dinh
tạm nầy Palais provisoire du gouverneur là một căn nhà
rộng lớn được tạm thời cất bằng cây, sườn nóc nhà được
đưa từ Singapor sang, nền nhà nằm trên thửa đất xây
cất trường Tabert trên đường Nguyễn Du ngày nay, mặt
tiền quay về hướng cột cờ Thủ Ngữ trên bờ sông Sài Gòn.
Trung tâm bưu điện còn có nhiệm vụ báo hiệu giờ giấc
hằng ngày cho dân chúng vùng Sài Gòn và do đó kể từ
1 tháng 8 d.l năm 1862, vào mỗi buổi trưa đúng Ngọ -
12 giờ trưa - tàu chiến Duperré trên sông Sài Gòn cho
nổ một phát thuốc súng đại bác để báo hiệu. Lệ nổ súng
nầy về sau được chính quyền Pháp ở Sài Gòn thay đổi
cho nổ súng mỗi ngày 3 lần sáng, trưa, chiều và 2 khẩu
đại pháo được đặt trên bờ sông Sài Gòn, cuối đường Hai
Bà Trưng, gần bến phà Thủ Thiêm ngày nay, nòng súng
quay về hướng Thủ Thiêm, đạn chỉ có thuốc nổ không có
đầu đạn và do bộ tư lệnh hải quân của Pháp giữ nhiệm
vụ bắn pháo hiệu nầy mỗi ngày.
Bonard cũng ra lệnh cho xây rộng thêm các bệnh viện,
các trại binh, trại sĩ quan, xây cất một nhà thờ (trong
vuông rào của bệnh viện Đồn Đất - Hôpital Grall ngày
nay) và một nhà in của chính quyền Pháp. Một đồ án chỉnh
trang thành phố Sài Gòn cũng được Bonard giao cho đại
tá công binh Coffyn thực hiện và thiết kế. Đồ án được
làm xong vào ngày 13 tháng 5 dl năm 1862. Một đèn rọi
biển (hải đăng) cũng được Bonard đề nghị đặt trên đảo
Côn Sơn vì Bonard cho rằng Côn Sơn là đồn canh phòng
vùng đất Gia Định của Nam Kỳ. Cuối tháng 3d.l năm 1862,
một số 50 tù nhân hình sự được đưa ra giam nhốt trên
đảo Côn Sơn và những đợt tiếp theo là các tù binh chiến
tranh và những người kháng chiến chống Pháp, cũng được
đưa ra giam nhốt chung trên đảo nầy.
Chương trình giáo dục dạy Việt ngữ và Pháp ngữ cũng
được Bonard khởi xướng. Một trường huấn luyện thông
dịch viên cấp tốc ngắn hạn dành cho người Âu châu được
thiết lập do giáo sĩ người Pháp tên là Croc làm hiệu
trưởng và một giáo sĩ gia tô người địa phương tên là
Thọ làm phó hiệu trưởng. Trường nầy không tạo được kết
quả mong muốn bởi vì những học viên là thành phần trong
quân đội Pháp và họ không muốn học Việt ngữ do đó những
người thông dịch viên chính thức đầu tiên của Pháp là
những người thông dịch viên Âu châu kém trình độ, không
đủ khả năng thi hành chức vụ thông dịch.
Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết về mặt thông ngôn và thông
dịch, một sắc lệnh được người Pháp ban hành ngày 1 tháng
12 dl năm 1861 tổ chức cuộc thi tuyển một đội ngũ những
người địa phương có học và những người thông ngôn: hai
hạng người nầy chỉ cần có một số vốn tiếng La tinh thông
dụng là được tuyển chọn.
Trường học Pháp d' Adran được thành lập ngày 15 tháng
1 dl năm 1862, khởi đầu nhận 30 học sinh nam có tiền
trợ cấp rồi tăng lên 70 học sinh. Trường học sinh nữ
Sainte-Enfance thành lập ngày 30 tháng 1 dl năm 1862
và nhận 100 học sinh. Tất cả các học sinh nam, nữ của
2 trường là con em của những người đã hợp tác hoặc có
công trạng với đội quân viễn chinh của Pháp và được
đào tạo để trở thành những nhân viên có khả năng làm
việc trong tương lai cho chính quyền xâm lược Pháp.
Kể từ ngày 20 tháng 1 dl năm 1861, người Pháp đã cho
phép đấu giá lập xưởng nấu thuốc á phiện (opium) với
giá 91,000$ tiền Đại Nam ngang với 500,000 quan tiền
Pháp, thu lợi hơn 2 triệu quan và tạo ra một tầng lớp
đông đảo người địa phươnĐây là một chủ trương tệ lậu
và độc hại nhất trong chính sách thuộc địa "khai
phóng" mà kẻ xâm lược từ phương Tây đã đưa tới
cho dân tộc Việt Nam kể từ khởi thủy cuộc xâm lăng chiếm
đất của họ. Chính ngay cả người Pháp cũng phải nhận
rằng đây là một tội ác về cả mặt kinh tế và xã hội :
"Un autre vice, économique et social celui-là,
fut consacré en ce temps nous avons nommé l'opium"
tạm dịch: "một loại tội ác khác trên bình diện
Kinh Tế và Xã hội đã được thánh hóa vào thời đó (tức
là vào thời Bonard), chúng ta (tức người Pháp) đã công
nhận á phiện" (A. Schreiner đã dẫn, trang 239-240).
Ảnh hưởng độc hại của á phiện kéo dài suốt thời Pháp
thuộc, tạo ra một tầng lớp xã hội đen bao gồm thành
phần buôn lậu thuốc phiện và thành phần nghiện ngập
chuyên lo hút sách cờ bạc ăn chơi làm băng hoại xã hội.
Có rất nhiều người vì nghiện á phiện mà phải tán gia
bại sản đi ăn mày ăn xin để lấy tiền đi vào tiệm hút!
Giá buôn bán á phiện ngang ngửa với giá buôn bán vàng
bạc kim cương. Thành phàn nghèo khó nghiện ngập không
đủ tiền vào tiệm hút rất dễ sa ngã đi vào các con đường
tội lỗi hình sự như trộm cấp, mãi dâm, giựt cướp. Trên
đường phố Sài Gòn ngày xưa, trước ngày Pháp rời khỏi
miền Nam một cách vĩnh viễn, trên các lòng lề đường
xuất hiện một kiểu mua bán mới: mua bán vẻ rách lau
chùi bàn đèn hút thuốc phiện.
Thành phần tiêu dùng vẻ rách là những dân ghiền nghèo
xơ nghèo xác không đủ tiền vào tiệm hút để lên mây về
gió và vì thế khi bị cơn ghiền hành hạ, họ chỉ có đủ
một ít tiền ra lề đường mua vẻ rách để gặm nhắm cho
đỡ cơn đau đớn hành hạ. Loại vẻ rách nầy giống như mấy
miếng vãi lau xe dính dầu nhớt bụi bặm lâu ngày không
được giặt giũ do mấy chú Ba người Hoa chủ tiệm hút á
phiện tung ra thị trường bán cho dân ghiền không đủ
tiền hút sái nhứt, sái nhì (tức là thuốc phiện nguyên
chất hạng nhất, hạng nhì). Vẻ rách cũng không phải rẻ
bởi vì miến vẻ đó đã dược dùng để luồn vào óng điếu
hút thuốc phiện để lau chùi nhựa khói lâu ngày khắng
dính trong đó làm nghẹt ống hút. Nếu nhựa dính dầy quá
đã thành nhựa dẻo thì phải nạo nhựa ra rồi viên lại
thành viên nhỏ như hạt tiêu sọ để bán sái nhì rồi sau
đó mới luồn vải để lau cho sạch ống điếu và miếng vải
nầy được dùng để lau tới lau lui cho đến khi nó ra màu
nâu đậm thì đem ra bán cho dân nghèo nghiện hút trên
các lề đường. Miếng vải lau nhựa khói thuốc á phiện
được người bán xếp gói cất rất cẩn thận để khỏi bay
hết mùi . Khi có dân ghiền tới hỏi mua thì mới mở gói
ra lấy miếng vải rồi cắt một miếng nhỏ hình chữ nhựt
khoảng 6mm x 3mm giao cho người mua. Nơi bán có sẵn
bình trà nóng miễn phí, người mua rót nước trà nóng
vào tách rồi bỏ miếng vải nhỏ vào, đợi chừng một phút
cho chất nhựa khói màu nâu từ miếng vải hòa tan vào
nước rồi mới bưng lên uống từng ngụm nhỏ thật chậm,
mắt lim dim, người đờ đẫn như đang sai thuốc. Khi tách
nước ghiền đã cạn, miếng vải nhỏ lại được người ghiền
đưa vào miệng nhay ngấu nghiến để chắc mót cho hết chất
nhựa còn sót lại trong miếng vải nhỏ. Có những dân ghiền
còn nhỏ tuổi táo bạo hơn thì dùng một cái muỗm lớn để
nấu miếng vải nhựa trên một cây đèn cầy rồi hút vào
ống tiêm thuốc, tự mình mằn mò tìm gân máu trên tay,
trên chân mình để chích. Thảm nạn chết chóc vì chích
nhựa khói á phiện được báo chí hồi đó đăng tải thường
xuyên.
*
Vào tháng 7 và tháng 8 dl năm 1861, chính quyền xâm
lược Pháp cho mở các sòng đánh bạc. Tháng 4 và tháng
7 dl 1862 người Pháp cho phép mở hảng nấu cất rượu mùi.
Nhưng sau đó cho phép đóng thuế môn bài để tư nhân tự
do nấu cất rượu khiến tình trạng rượu lậu thuế lan tràn
khắp nơi.
Tháng 3 dl năm 1861, Charner ra lệnh thành lập 4 trung
đội lính tập người địa phương. Tháng 2 dl năm 1862,
Bonard nâng số lính tập dịa phương lên đến 3 tiểu đoàn,
để phối trí cho các tỉnh do quân Pháp chiếm đóng, mỗi
tỉnh một tiểu đoàn. Các tiểu đoàn lính tập nầy cũng
có nhiệm vụ giống như các đơn vị binh lính chính quy
của đoàn quân xâm lược Pháp. Đội kỵ binh Nam Kỳ được
thành lập ngày 7 tháng 2 dl năm 1862. Đội binh tình
nguyện (partisans) được thành lập ngày 19 tháng 2 dl
năm 1862.
*
Nhâm Tuất, Tự Đức thứ 15 tháng 7 âl (1862), một giám
mục đạo gia tô của nước Y Pha Nho tên là Lặc Đức cùng
với 3 giáo sĩ khác xin triều đình được tự do truyền
giáo từ Hà Tĩnh, Nghệ An vào Nam vì họ có giấy phép
của Bonard cấp. Triều đình không cho phép vì hòa ước
chưa được hai bên triều đình Pháp và triều đình Đại
Nam phê chuẩn.
Lợi dụng thời gian hòa ước chưa được phê chuẩn, triều
đình bàn định cử thủy sư đô đốc Võ Phẩm làm khâm sai
chính sứ, Trần đình Túc làm chức phó sứ, Đỗ Hệ, Hồ Quang
làm làm bồi sứ sang gặp vua nước Pháp để biện bạch về
việc Bonard bắt ép Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp nhượng
đất nhưng việc ấy rồi bỏ lơ. (VSTKCGKL; V; trang 1485)
Chương
18
Lý do của việc bỏ lơ nầy sử sách của triều Nguyễn không
nói rõ. Phải chăng triều đình Huế không phải chỉ có
bàn định mà thực ra đã cử người thay thế hai ông Giản
và ông Hiệp trong việc kỳ kèo ngoại giao với người Pháp
nhưng người Pháp ở Sài Gòn không chấp nhận nói chuyện
với những ông sứ thần mới của Tự Đức gởi vào Sài Gòn
và để khỏi xấu hổ với hậu thế chính sử nhà Nguyễn phải
cong queo viết rằng việc ấy rồi bỏ lơ đi?
Trên thực tế, nếu quả thực sứ đoàn mới của Tự Đức được
đề cử nhằm mục đích sang gặp hoàng đế Napoléon III của
nước Pháp để thưa gởi, khiếu nại về việc Bonard bắt
ép 2 ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp nhượng đất
thì lại càng chứng tỏ cho thấy tính cách ấu trĩ, dốt
nát bộc phát, lúng túng trong chính sách đối ngoại của
đám triều thần tung hê ở Huế kể cả ông hoàng đế Tự Đức
sáng chói thi văn tao đàn và đầy đạo đức Khổng, Mạnh:
qua mặt Bonard bằng cách tự động dùng mấy chiếc tàu
ọp ẹp từ thời Gia Long để chở đoàn sứ Đại Nam lần mò
vượt đại dương sang Pháp? Cách nầy thì vượt quá khả
năng của chính quyền Tự Đức vào lúc đó. Hay là chỉ còn
một cách là cứ gởi đoàn sứ vào Sài Gòn nói thẳng với
Bonard rằng ông ta phải cung cấp tàu biển và thủy thủ
chở đoàn sứ Đại Nam sang Pháp gặp thượng cấp của ông
ta là hoàng đế Napoléon III để tố cáo về những việc
làm sai quấy của ông ta trên đất nước Đại Nam? Hỏi như
thế tức là đã trả lời và kiểu cách ghi chép của sử sách
nhà Nguyễn "nhưng việc ấy rồi bỏ lơ " là một
sự luồn lách lường gạt, khinh thường hậu thế!
*
Từ khi hòa ước được hai bên ký kết, Tự Đức truyền lệnh
cho kháng chiến cùng với quan binh ở Nam Kỳ nghỉ binh
và đòi Trương Định về Phú Yên. Kháng chiến quân ở 3
tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa không chịu cầu hòa
với quân Pháp, tôn Trương Định làm Đại đầu mục để cầm
đầu quân kháng chiến tiếp tục đánh. Triều đình phải
cử Phan Thanh Giản đi hiểu dụ, Trương Định vẫn không
chịu về Phú Yên, vì vậy bị triều đình cách chức hàm.
Nguyễn Tri Phương từ Bình Thuận theo lệnh của Tự Đức
về chầu triều và được Tự Đức hỏi ý kiến về cách làm
việc của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp. Nguyễn Tri
Phương nhận định như sau:
-Thanh Giản và Duy Hiệp phải làm theo lệnh vua nhưng
lòng người dân ở Nam Kỳ không chịu khuất phục quân Pháp
cho nên vẫn tiếp tục chiến đấu, không theo lệnh ngừng
chiến của nhà vua và ngay cả cá nhân của Nguyễn Tri
Phương cũng không đủ sức dập tắt.
-Theo ý Giản và Hiệp thì sau khi việc nghị hòa được
2 bên phê chuẩn thì đất nước sẽ lại được phú cường như
trước nhưng theo ý của Nguyễn Tri Phương thì không thể
trông mong vào kết quả của hòa ước vì đến lúc đó tài
lực nhân lực của đất nước đã bị tiêu hao mất rồi thì
làm sao mà giàu mạnh được?
-Nguyễn Tri Phương cho rằng những ý kiến của mình không
phù hợp với ý kiến của Thanh Giản và Duy Hiệp cho nên
không thể nói ra cho họ biết mặc dù Nguyễn Tri Phương
vẫn luôn luôn để tâm lo âu làm sao cho nên việc nước
mà thôi.
Trong khi chờ đợi kết quả công tác thương lượng của
Phan Thanh Giản trong Nam Kỳ, Tự Đức chỉ thị Nguyễn
Tri Phương cùng với Đoàn Thọ và Trần Tiễn Thành cùng
nhau hợp bàn, chuẩn bị để phối hợp cùng với Phan Thanh
Giản tìm những phương cách phù hợp với tình thế mà đối
phó.
Tháng 8 âl, Tự Đức 15 (1862), người Pháp khởi công
xây cất nhà sứ của họ trên bờ hữu ngạn sông Hương. (Lê
Thanh Cảnh, bài viết trong ĐTHCTS-BAVH đã dẫn, trang
389).
Tháng 8 âl nhuận (1862), tỉnh Tuyên Quang có hơn 10,000
giặc thổ phỉ do 2 đầu đảng tên là Huân (Uẩn) và Nông
Hùng Thạch chỉ huy quấy phá: bố chánh Nguyễn Tất Tố
và án sát Nguyễn văn Tố nộp thành cho giặc rồi bỏ chạy
trốn sau đó cả hai đều bị quan binh triều đình xử tội
chết, dựng bia nơi mã để là gương. Tỉnh Cao Bằng thì
có thổ phỉ người hoa Lý Hợp Thắng vây đánh; tỉnh Bắc
Ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá khiến cho triều đình
phải lo ngại. Tự Đức và đình thần mật bàn chọn người
bổ nhiệm làm tướng ở quân thứ Tây Bắc. Đình thần đề
cử Nguyễn Tri Phương, Trương Đăng Quế đề cử Trần Tiễn
Thành. Khi được hỏi ý kiến, Nguyễn Tri Phương và Trần
Tiễn Thành đều thoái thác không nhận với lý do là không
biết được được lòng dân và tình thế ở Bắc Kỳ. Tự Đức
quyết định cử Nguyễn Tri Phương sung làm Tây Bắc tổng
thống quân vụ đại thần, Phan Đình Tuyển giữ chức Tán
lý, Tôn Thất Tuệ sung làm Đề đốc, Phạm Hán và Hoàng
Mân giữ chức Đốc binh quân thứ Tây Bắc (Bắc Ninh, Thái
Nguyên, Tuyên Quang)
Tháng 8 âl nhuận, Tự Đức 15 (1862), một đầu mục kháng
chiến ở An Giang là tú tài Trịnh Quang Nghi đã bắt giết
44 tín đồ theo đạo Gia tô vì họ không chịu chối bỏ đạo.
Phan Thanh Giản tấu trình xin bắt tội Quang Nghi nhưng
Tự Đức không nghe theo lời tấu của Phan Thanh Giản.
Phan Thanh Giản lại đề nghị cách chức Tri huyện của
một đầu mục kháng chiến khác ở Vĩnh Long là cử nhân
Đoàn Tiến Thiện vì thấy rằng Thiện kháng chiến chỉ để
được hưởng lương tiền của triều đình. Tự Đức cũng không
nghe theo đề nghị của Phan Thanh Giản.
Ngày trước nước Xa Lý Ti (nay thuộc đất Vân Nam của
Trung Quốc) đánh nhau với nước Nam Chưởng. Quốc trưởng
nước ấy là Thiệu Bằng Xà chạy đem theo hơn 100 dân đinh
sang xin trú ngụ ở Điện Biên (thuộc tỉnh Hưng Hóa của
Đại Nam). Sau khi thôi đánh nhau, dân chúng nước ấy
xin rước Xà về. Tự Đức lệnh cho tỉnh thần nên vỗ yên
mà cho về.
Trước đây, quân Xiêm yểm trợ đưa Norodom đệ I về làm
vua nước Cao Miên rồi đặt quan cai trị người Xiêm ở
U đông để bảo hộ nước nầy. Sau khi hòa ước năm Nhâm
Tuất (1862), được ký kết, vào khoảng tháng 9 d.l năm
1862 Bonard đã sang U đông gặp chính quyền bảo hộ người
Xiêm cùng với vua Norodom. Người Xiêm thì muốn liên
kết với Pháp để chống lại Đại Nam, vua Norodom thì muốn
dựa vào Pháp để thoát ảnh hưởng của Xiêm và ảnh hưởng
của Đại Nam vì thế Bonard được tiếp đón trọng thể nhưng
chưa có một sự ký kết nào giữa Bonard và các chức quyền
của Cao Miên.
Ở mặt Hải Dương và Quảng Yên, Trương Quốc Dụng và Đào
Trí hành quân giải vây thành Hải Dương
Tháng 9 âl, Tự Đức 15 (1862), chấp thuận cho Trương
Đăng Quế thôi coi việc bộ Binh.
Bonard thông báo cho triều đình được biết là hoàng
đế nước Pháp cũng như nữ hoàng Y Pha Nho đã ký chuẩn
phê hòa ước năm Nhâm Tuất và hẹn đến tháng 11 sẽ sai
sứ giả đến kinh đô Huế để 2 phía trao đổi cho nhau.
Triều đình lại lấy cớ rằng người Pháp không thi hành
đúng thời hạn một năm thủ tục phê chuẩn cho nên lại
sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn bàn
thảo thêm, yêu cầu người Pháp kéo dài thời hạn phê chuẩn
đồng thời tìm cách sửa đổi điều khoản nhượng đất. Pháp
không chịu dời thời hạn vì họ cho rằng "lời lẽ
hạn trong một năm được ghi trong hòa ước không nhất
thiết là phải đầy đủ một năm. Còn nghi lễ tiến lui triều
yết, thì đợi gần đến kỳ sẽ nghĩ định trả lời sau".
(ĐNTLCB, quyển XXVII đã dẫn, trang 344).
Tháng 10 âl, Tự Đức 15 (1862), Tạ Quang Cự mất, tuổi
hơn 90, được truy tặng hàm Thái bảo, cho tên thụy là
Trung Khắc.
Người Pháp dụ Trương Định ngưng chiến quy hàng nhưng
Định không thuận. Phan Thanh Giản lại xin Tự Đức ban
sắc chỉ để dụ Định. Tự Đức cho rằng phong trào kháng
chiến tiếp tục của Trương Định có lợi cho mưu tính lấy
lại đất cho triều đình vì thế không nghe theo lời xin
của Phan Thanh Giản.
*
"Le 12 Décembre (1862) une dépêche de Huế datée
de 2 Novembre 1862 (khoảng tháng 10 âm lịch) permit
enfin de voir clair dans la politique annamite. Cette
dépêche avait été apportée par un mandarin du rang inférieur,
qui repartit précipitement sans attendre la réponse.
La cour demandait la restitution des trois provinces."
(A. Schreiner đã dẫn, trang 249).
tạm dịch:
"Ngày 12 tháng 12 một khẩn thư của triều đình
Huế đề ngày 12 tháng 11 năm 1862 giúp cho thấy rõ chính
sách của phía người An Nam. Lá khẩn thư nầy do một quan
lại cấp thấp mang đi và trở về (Huế) một cách hộc tốc
mà không cần chờ có thư hồi đáp. Triều đình yêu cầu
hồi phục 3 tỉnh".
Theo như lời lẽ của tác giả A. Schreiner thì lá thư
khẩn cấp nầy do một viên quan cấp nhỏ của triều đình
Huế chạy tờ mang đi để trao tận tay cho người nhận.
Vậy người nhận là Phan Thanh Giản? Là Trương Định? Hay
phía người Pháp?
A.Schreiner không cho biết lá khẩn thư đó trao cho
ai nhưng nhờ đâu mà A. Schreiner biết được nội dung
của lá thư là yêu cầu hồi phục 3 tỉnh đã mất vào tay
người khác. Tác giả dùng chữ demandait có nghĩa là yêu
cầu. Nhất định là Tự Đức không yêu cầu Phan Thanh Giản
mà chỉ cần ra lệnh.
Trong lúc nầy thì Trương định "cứng đầu"
thề không đội trời chung với quân xâm lược Pháp cho
nên, không nghe lệnh của triều đình Huế, muốn đơn phương
chống Pháp cho nên dù Phan Thanh Giản thay mặt triều
đình có yêu cầu Trương Định ngừng bắn thì Trương Định
vẫn xem thường lời yêu cầu của ông Giản khiến ông Giản
phải cầu cứu sự can thiệp của Tự Đức.
Thái độ lưng chừng của Tự Đức là vừa thương lượng vừa
đánh, vừa nhờ tay người khác đánh : thứ nhứt là vì quan
binh triều đình chỉ biết rút lui chứ không đủ khả năng
đối đầu với quân xâm lược; thứ hai là để Tự Đức phủi
tay không chịu trách nhiệm nếu đối phương đỗ tội hiếu
chiến cho triều đình Huế cố tình phá vỡ cuộc đàm phán
vãng hồi hòa bình bằng cách sẽ đối chất rằng: không
phải quân chính quy của triều đình tiếp tục gây rối
nhưng chính là do nhân dân nổi lên chống quân xâm lược
mà điển hình là đoàn dân quân kháng chiến của Trương
Định.
Triều đình Huế muốn che mắt người Pháp bởi vì Tự Đức
không những đã ngầm say người đến phong chức cho Trương
Định để lấy lòng mà cũng âm thầm yểm trợ thêm quân binh
của triều đình cho ông Định đánh phá các đồn lũy của
quân xâm lược trong khi ngoài mặt vẫn khiến say ông
Giản thương thuyết để tỏ rõ thiện chí hòa bình của Tự
Đức và triều đình Huế - một thiện chí giả tạo và gượng
ép. Vì thế, khi được tấu thư của ông Giản xin Tự Đức
và triều đình ra lệnh cho ông Trương Định ngưng bắn,
Tự Đức đã không nghe theo mà còn tỏ thái độ bực bội
với ông Giản. Sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên ghi như
sau:" Phan Thanh Giản hằng dụ Trương Định, Định
thề không cùng giặc Tây dương cùng sống. Binh dân ứng
nghĩa ở 6 tỉnh thuộc vào trong bộ ngũ của trương Định
đều cùng cầm cự chống lại giặc Tây dương. Tướng nước
Phú chiêu dụ Định, Định không chịu khuất, Thanh Giản
lại xin xuống sắc để dụ Định. Vua bảo các thị thần rằng:
lòng người như thế, cũng là một sự giúp cho cuộc mưu
tính lấy lại, há lẽ nào cứ răn dụ lặt vặt mãi."
(ĐNTLCB; đã dẫn, trang 345-346).
Rõ ràng là Tự Đức trông mong rất nhiều về lực lượng
kháng chiến của ông Trương Định và có thể Tự Đức thay
vì nghe theo lời yêu cầu của ông Giản để ra lệnh cho
ông Định ngưng bắn thì lại cho người mang thư khẩn cấp
vào trao thẳng cho ông Định để yêu cầu ông Định cứ tiếp
tục chiến đấu. Có thể ông Giản không hay biết gì về
lá khẩn thư nầy của Tự Đức gởi cho Trương Định. Lá thư
khẩn nầy có hiệu lực như một hiệu lệnh nổi dậy tấn công
đồng loạt, cho nên chỉ 4 ngày sau khi lá thư khẩn tới
tay Trương Định ngày 12/12/1862 thì kể từ ngày 17/12/1862
các lực lượng kháng chiến của Trương Định đã nổi lên
tấn công liên tục liên quân xâm lược khiến cho Phó Đề
Đốc Bonard phải xin thêm viện quân. Ngày 11 tháng 2
năm 1863, Bonard treo giải thưởng cho bất cứ ai chém
được và nọp đầu các thủ lãnh kháng chiến quân. Ngày
25 tháng 2 năm 1863, Bonard bao vây và càn quét kháng
chiến quân khắp nơi nhưng Trương Định trốn thoát. (A.
Schreiner; đã dẫn; trang 249-250).
Nghi vấn còn lại ở đây là tại sao A.Schreiner đã dựa
vào đâu để nêu ra bức khẩn thư đề ngày 2 tháng 11 dl
năm 1862 của Tự Đức và triều đình Huế gởi cho Trương
Định và viên quan "vô danh" có nhiệm vụ trao
lá khẩn thư cho Trương Định là ai mà đi, về có vẽ hấp
tấp bí mật? Đây là 2 nghi vấn xin để lại cho người sau
truy xét
Chương
19
Sau khi các tổ kháng chiến ở các tỉnh Mỹ Tho, Biên Hòa,
Bà Rịa, Vĩnh Long bị quân Pháp bình định, kháng chiến
quân Nam Kỳ tập trung lực lượng về Gò Công và tạo nơi
đây thành một căn cứ kháng chiến trường kỳ chống quân
xâm lược Pháp.
Quyết tâm tiêu diệt các tổ kháng chiến do Trương Định
cầm đầu, Bonard xin chính phủ Pháp tăng viện 2 tiểu
đoàn thủy bộ binh (A.Schreiner, sách đã dẫn, trang 249).
Ngày 17 tháng 12 dl (1862), quân kháng chiến của Trương
Định bất thần tấn công đồn Rạch Tra nhưng bị quân Pháp
đồn trú đẩy lui. Phía Pháp có một sĩ quan đại úy và
một binh sĩ tử trận. Cùng ngày, quân kháng chiến do
Nguyễn Trung Trực chỉ huy cũng tấn kích vào Bến Lức.
Ngày 18 tháng 12 dl (1862), 1,200 quân kháng chiến
tấn công đồn kinh Thuộc Nhiêu nằm trong khoảng đường
từ đồn Cai Lậy đi xuống Mỹ Tho. Đồn nầy do đại úy Taboulé
và 50 binh sĩ Pháp đóng giữ. Theo tác giả A.Schreiner
thì trong trận nầy quân kháng chiến quyết đánh chiếm
đồn Thuộc Nhiêu nhưng thất bại và để lại quanh đồn hơn
200 xác chết (A.Schreiner; sách đã dẫn; trang 250).
Các cuộc tấn công đồng loạt của kháng chiến quân tiến
gần sát đến vòng đai Sài Gòn, tấn công đồn Nam (đồn
Thảo Câu ở Tân Thuận) nhưng bị quân đánh thuê cho Pháp
do cai tổng Thế chỉ huy chận đánh ở Rạch Bàn. Tất cả
những cuộc nổi dậy tấn công đồng loạt của kháng chiến
quân lần nầy quy mô và táo bạo hơn những chiến dịch
tấn công từ trước tới nay và mặc dù quân kháng chiến
bị thiệt hại về nhân mạng khá lớn nhưng cũng gây bối
rối và lo ngại cho quân xâm lược Pháp. Bonard đã phải
xin thêm viện binh từ các căn cứ hải quân Pháp đóng
ở Trung Quốc và ở Phi Luật Tân. Phó thủy sư đề đốc Jaurès
đáp ứng ngay yêu cầu của Bonard bằng cách điều động
từ căn cứ hải quân ở Thượng Hải một số pháo thủ của
tiểu đoàn lính người Algérie, một tiểu đoàn khinh binh
người Bắc Phi. Số quân tăng viện nầy do hai tàu chiến
Sémiramis và La Renommée chuyên chở, ghé ngang qua Phi
Luật Tân lấy thêm 800 lính thuộc trung đoàn 5 binh do
trung tá Moscoso người Tây Ban Nha chỉ huy.
Ngày 7 tháng 1 dl năm 1863, Pháp bắt đầu đặt những
cơ sở cho một nền hành chánh dân sự trong các vùng đất
chiếm đóng bằng cách lập ra đội ngũ thanh tra đặc trách
các vấn đề của người dân bản xứ (dân chúng của Đại Nam).
Thành phần nhân sự đội ngũ nầy là những viên chức cũ
hiện đang nắm giữ nhiệm vụ hành chánh cai trị và được
phân chia thành 3 hạng ngạch.
Để đáp ứng với sự gia tăng về các dịch vụ bưu chính
trong lãnh vực thương mãi và trong dân chúng, chính
quyền Pháp ở Sài Gòn đã ký sắc luật thành lập Sở Bưu
Chính Sài Gòn vào ngày 13 tháng 1 dl năm 1863.
Sau khi được tăng viện, ngày 7 tháng 2 dl năm 1863,
Bonard thông cáo lời kêu gọi kháng chiến quân ngưng
chiến. Ngày 11 tháng 2 dl năm quân Pháp treo giá ban
thưởng cho bất cứ ai giết được các đầu lãnh kháng chiến
quân.
Ngày 16 tháng 2 dl / 1863, Bonard đích thân xuống Gò
Công phối trí các lực lượng quân sự của Pháp để chuẩn
bị chiến dịch bình định truy kích quân kháng chiến.
Ngày 25 tháng 2 dl 1863, từ soái hạm Ondine, Bonard
ban lệnh cho quân Pháp ở Gò Công bắt đầu chiến dịch
bình định, tấn công vào làng Đông Sơn và các ổ kháng
chiến ở Vĩnh Lợi. Hai chiến hạm của phó đề đốc Jaurès
áng ngữ các cửa sông. Đa số kháng chiến quân đều thoát
khỏi được cuộc bao vây của quân Pháp kể cả đầu lãnh
Trương Định. Trong chiến dịch càn quét nầy của quân
Pháp-Tây Ban Nha, tiểu đoàn lính tập bản xứ đã được
người Pháp đánh giá là rất hăng sai, trung thành, gan
dạ, thiện chiến để rồi sau đó được phó đề đốc De la
Grandière ban thưởng một lá cờ có mang những dòng chữ
Hán và chữ Pháp: Xứ Nam Kỳ thuộc Pháp, tiểu đoàn bản
xứ số 1, Chí Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, Phước Lộc, Gò Công.
Sau khi tái chiếm Gò Công, quân Pháp liền tiến hành
ngay những việc sau đây:
1/- xử phạt án tử hình các cấp chỉ huy kháng chiến
bị bắt, tịch thu tài sản của họ.
2/- truy thâu toàn thể mức thuế ấn định trong năm 1862
cho tỉnh Gò Công.
3/- kiểm tra tất cả các loại vũ khí.
4/- Phá hủy các công sự chiến đấu của kháng chiến, bắt
dân chúng làm xâu đắp sửa cầu đường.
5/- Bắt các người Hoa ở Gò Công phải đóng góp chiến
phí.
Quý Hợi, Tự Đức 16, tháng 1 âl (1863), triều đình cử
tướng lãnh ra Bắc kỳ để bình định các vùng ven biển
phía Đông Bắc.
Tháng 2 âl, Tự Đức 16 (1863), phó đề đố Bonard đại
diện cho nước Pháp và đại tá Balanca đại diện cho nước
Y Pha Nho ra thủ đô Huế để tiến hành nghi lễ trao đổi
hiệp ước Nhâm Tuất đã được hoàng đế nước Pháp và hoàng
đế nước Đại Nam ký phê chuẩn.
Tháng 2 âl, Tự Đức 16 (1863), những quan đại thần sau
đây được Tự Đức chỉ định vào ủy ban tổ chức đón tiếp
đoàn sứ Pháp-Tây Ban Nha:
-Trần Tiễn Thành, Binh bộ thượng thư;
-Đoàn Thọ, Phủ sự trung quân;
-Phan Thanh Giản;
-Lâm Duy Hiệp;
-Phạm Phú Thứ;
-Nguyễn Quang Quyền, quyền chưởng doanh Long võ;
-Đặng Hạnh, chưởng doanh Kỳ võ;
-Phạm Đức Ý, biện lý bộ Công;
-Lê Tuấn, biện lý bộ Hình.
Ngày 16 tháng 4 d.l năm 1863, Tự Đức tiếp kiến các
sứ thần ở điện Thái Hoà. Các sứ thần trao ủy nhiệm thơ
và quà tặng ngoại giao của hoàng đế Pháp và nữ hoàng
Tây Ban Nha và tiến hành nghi thức trao văn kiện hoà
ước năm Nhâm Tuất đã được hoàng đế và hoàng hậu của
họ chuẩn phê. Sau đó, triều đình lại đưa quốc thư với
bản hoà ước đã được chuẩn phê đến nhà sứ quán đúng như
nghi thức để trao cho các sứ thần Pháp-Tây Ban Nha tiếp
nhận.
Năm Quý Hợi, tháng 3 âl, Tự Đức thứ 16 (1863), Binh
bộ thượng thư lãnh tuần phủ Thuận Khánh Lâm Duy Hiệp
mất. Bộ Lại tâu lên. Tự Đức nói: <<Duy Hiệp chưa
hay lập công chuộc tội, nhưng nghĩ đến người bầy tôi
cũ, gia cấp cho hạng lụa màu và tiền, còn xử theo tội
gì sau sẽ bàn định.>>
Ngày 18 tháng 4 d.l năm 1863 đoàn sứ Pháp được đoàn
thuyền riêng của Tự Đức đưa đi trên sông Hương ra Vụng
cảng Đà Nẵng để sáng ngày 19 tháng 4 d.l họ lên tàu
chiến Grenada và về tới Sài Gòn ngày 22 tháng 4 d.l
năm 1863.
*
Bonard đã đích thân viết một bản phúc trình gởi đến
bộ trưởng bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính phủ Pháp
về việc trao đổi hoà ước ngày 9 tháng 5 âl năm Nhâm
Tuất/ niên hiệu Tự Đức thứ 15 tức là ngày 5 tháng 6
d.l năm 1862. Hòa ước nầy được hoàng đế Napoléon III
chuẩn phê ngày 1 tháng 7 d.l năm 1863 tại điện Fontainebleau/
Pháp quốc.
Sau đây là toàn văn bản phúc trình của Bonard trên
tập san Revue Maritime et Coloniale, tập 9, tháng 9
năm 1863 do Bộ Hải Quân và Thuộc Địa phổ biến trong
kỳ phát hành thứ 33, từ trang 168 đến trang 174):
ÉCHANGE
DES RATIFICATIONS DU TRAITÉ CONCLU AVEC LE ROYAUME D'ANNAM
Le ministère de la marine et des colonies a reçu du
vice-amiral Bonard le rapport suivant:
Monsieur le ministre,
J'ai l'honneur de rendre compte à Votre Excellence
des derniers événements qui se sont passés en Cochinchine
avant la remise du service au contre-amiral la Grandière
et mon départ pour la France.
Aussitôt l'insuurection réprimée dans toutes les provinces
françaises et l'ordre matérel établi, je me suis empressé
de tout remettre dans l'état normal.
J'ai immédiatement fait repartir pour la Chine, par
la frégate la Sémiramis, que monte l'amiral Jaures,
les militaires d'infanterie légère qui étaient venus
du Nord, et cette frégat a pu, en passant à Tourane,
et sans retarder son voyage, me porter au but de ma
mission définitive, la ratification du traité, combinaison
qui a présenté l'avantage de faire voir au gouvernement
annamite une force respectable prête à agir.
Le comandant de la division des mers de Chine a pu
ainsi partir de Tourane le 5 avril et retourne immédiatement
au centre de sa station, où la présence de toute ses
forces devenait nécessaire, apres avoir rendu un sevice
signalé à notre nouvelle possession dans l'extrême Orient.
Tout le corps expéditinaire espgnol a quitté Saigon
pour se rendre à Manille sur le transport l'Européen
, qui, après ce voyage a dû aller à Hong-Kong pour y
subir les réparations dont il a besoin.
La paix règne partout. Les populations ont été condamnées
à raser les fortifications, à construire les routes
et les ponts qui avaient été détruits, à rétablir les
tééegraphes, enfin à payer des amendes por couvrir les
frais d'installation des postes que cette levée de boucliers
nous a forcés à creer.
Toutes ces mesures sont en voie d'exécution; les lignes
télégraphiques rétablies fonctionnent. Afin d'éviter
tout malentendu, toutes espèces de lenteurs dans les
difficiles relations avec les Asiatiques, j'ai dû tout
prévoir et tout formuler par écrit avec les deux plénipotentiares,
Lam, gouverneur général, de Binh Tuân, et Phan-Tan-Gianh,
gouverneur général et vice-roi de Vinh-Long, que je
fait venir à cet effet à Saïgon.
Dès que tout a été réglé et bien entendu avec ces fonctionnaires,
je les ai expédiés à l'avance pour Hué le 1er avril
sur l'aviso le Forbin, afin de veiller à tout les préparatifs.
Je me suis moi même embarqué le 2 sur la frégate la
Sémiramis, accompagné du Cosmao et de la Grenada, ainsi
que la corvette espagnole la Circé, portant le plenipotentiaire
de Sa Majesté Catholique. Nous avons mouillé sur la
rade de Tourane le 5; le jour même l'amiral Jaurès s'est
acheminé sur la Chine.
Tout avait été prévu par notre réception: les grabds
mandarins, envoyés de la capitale et échelonnés sur
toute la route, avaient fait préparer des habitations,
des porteurs, des relais et des vivres pour nous et
notre escorte, composée pour les deux missions, de cent
hommes choisis parmi les différents corps.
Les logements, parfaitement installés et entièrement
semblables à toutes les étables, nous permettaient,
une fois la experience faite, d'entrer immédiatement
dans nos appartements respectifs à toutes les stations
suivantes.
Les hommes de l'escorte, choisis parmi des sujet d'élite
des diverses armes et munis chacun d'une petite somme
d'argent, afin d'éviter pendant le trajet tout malentendu,
toute exaction, ont tenu une conduite exempte de reproches,
et les porteurs requis pour notre convoi ont reçu une
gratification à laquelle ils n'étaient pas accoutumés,
ce qui a fait que notre promenade pacifique à travers
la Cochinchine n'a produit qu'une excellence impression
sur la population.
Les escortes d'honneur, formées par les troupes régulières
de Hué, se sont conduites avec tous les égards de la
considération que l'on pouvait désirer; toujours elles
ont fourni un poste d'honneur au traité, porté en grande
pompe sur une estrade écarlate pendant tout le trajet
et placé sur l'autel des pagodes dans lesquelles nous
nous arrêtions; de plus, toutes les fois que le nombre
des porteurs étaient insuffisant dans les passges difficiles,
elles ont aidé à faciliter notre voyage sur toute la
route; des mandarins envoyés de la capitale de l'Annam
et les autorités locales veillaient à ce qu' il ne pût
rien nous manquer.
Nous sommes arrivés à Hué le 10, au milieu d'une nombreuse
escorte échelonnée sur tout notre passage et composée
des différents corps de troupes régulières avec leurs
colonels et officiers en tête, et nous avons étés reçus
par des ministères venant au-devant de nous à une grande
distance de la capitale por nous accompagner aux logements
qui avaient été disposés por nous sur les glacis de
la citadelle.
Pendant tout notre séjour, nous avons été l'objet des
mêmes égards, et nous avons pu immédiatement nous occuper
de régler les formalités relative à la signature et
à la remise définitive du traité, ainsi qu'à l'audience
impériale.
De même qu'à notre départ de Saigon, tout a été établi
par écrit avec les les ministres et les plénipotentiaires
Lam et Phan-Tan-Gianh.
Le 14, nous avons fait, en grande pompe, l'echange
du traité ratifié par S.M. Tu Duc, dans l'édifice où
se publient les édits du roi.
Le choléra, qui sévissait fortement à Hué, nous a fait
éprouver une perte sensible: c'est celle de l'ambassadeur
Lam, qui, le lendemain de l'échange dans des ratifications,
a éte enlevé presque subitement, par suite des fatigues
qu'il avait éprouvées pour disposer et terminer cette
cérémonie.
Cette mort si regrettable n' a heureusement pas empêché
les affaires de se conclure, grâce à la présence de
Phan-Tan-Gianh.
Le 16, après avoir arrêté par écrit le discours que
je devais adresser à S.M. l'empereur Tu-Duc, la réponse
qu'il devait me faire, ainsi que les places et les formes
que nous devions remplir, nous avons pu nous rendre
à l'audience impériale de congé dans la citadelle.
Le luxe oriental dans toute sa splendeur avait été
déployé par la cour d'Annam dans cette circonstance;
plus de 20,000 hommes de troupes de diverses étaient
partout échlonnés sur notre passage; les éléphants,
même ceux du roi, caparaçonnés et montés par leurs conducteurs,
avient un aspect monumental qui faisait diversion à
la monotoniedes troupes bariolées de couleurs éclatantes,
dont toutes les avenues de la citadelle étaient couvertes.
Accompagné de notre escorte qui, selon l'usage, a dû
s'arrêter avec ses armes à l'entrée à la cour servant
de sanctuaire à l'autorité royale, nous nous sommes
présentés devant S.M. l' empereur Tu-Duc.
Nous avons étés dispensés des salutations profondes
qui ne sont pas dans nos mœurs et nous avons conservé
nos épées; nous sommes en conséquence bornés, comme
cela avait été convenu, à une première incination à
l'approche des marches du trône et à trois autres en
prenant congé de S.M. Tu-Duc.
Le roi d'Annam, dans un vaste hangar décoré de soieries
et de pavillons, entouré des princes des diverses dinesties
qui ne sont pas de cent cinquante ou deux cents, nous
a reçus devant une table d'or.
Tous les dignitaires de la cour, les mandarins, les
lettrés, les gardes du roi, en habits de soie, étaient,
comme nous, dans la cour.
Aussitôt rendu à la place qui m'avait été disignée,
j'ai adressé directement à Sa Majesté le discours convenu,
dont je transmets une copie à votre Excellence.
Ce dicours répété au roi, en langue chinoise, par le
capitaine frégate Aubaret, puis par le plénipotentionaire
Phan-Tan-Gianh, la reponse qui est jointe à la présente
communication nous a été immédiatement rendue par un
membre du conseil privé.
Imméditement après cette cérémonie, nous sommes remtrés
avec la même pompe à notre logement, où nous avons reçu
les visites successives des divers ministres et des
envoyés du roi.
S.M. Tu Duc m'a envoyé le jour même un autographe pour
S.M. l'Empereur avec l'apparat qui accompagne de pareille
missives regardées comme sacrées, en me faisant dire
qu'après la signature officielle du traité il avait
cru devoir me charger d'une lettre en vers écrite en
entier de sa main, pour que je puisse la présenter moi-
même à S.M. l'Empereur des Français.
Le 18, nous avons pu rejoindre par eau le steamer le
Granada, que j'avais fait mouiller devant Hué, afin
d'éviter, si cela était possible, à l'escorte fatigué,
et dans un moment d'épidémie de choléra, la course pénible
du retour par terre de la capitale à Tourane.
Cette demande m'a été accordée sans difficulté; j'ai
eu conséquence appareillé pour Saigon le 19 au matin,
n'ayant perdu que deux militaires, l'un du corps espagnol
et l'autre de l'infanterie de la marine, pendant ce
voyage fatiguant et au milieu des circonstances fâcheuses
d'une épidémie qui faisait de nombreuses victimes à
Hué parmi la population.
En résumé, monsieur le ministre, le traité ratifié
par l'Empereur et ses envoyés ont été accueillis avec
tous les honneurs et la considération possibles dans
la capitale du royaume d'Annam.
La petite course pacifique faite par notre détachement
n'a produit qu'un bon effet sur la population.
Le désir d'envoyer une ambassade à Paris, auprès de
S.M. l'Empereur s'est, à plusieurs reprises, officiellement
manifesté, ainsi que celui de nous confier, tant à Saigon
qu'en France, un certain nombre de jeunes gens intelligents
des premières familles pour les initier à notre civilisation
et l'instruction européenne.
J'apporte à Votre Excellence le traité sans modification
ratifié par S.M le roi Tu-Duc, une lettre autographe
de ce souverain à S.M. l'Empereur, enfin, un million
en à-compte sur l'indemnité de guerre convenue.
Le roi d'Annam, n'ayant pas eu le temps d'adresser
à S.M. l'Empereur des cadeaux dignes de lui être offerts,
se propose de réparer cett omission aussitôt qu'il lui
sera permis d'envoyer une ambassade auprès de S.M. l'Empereur
Napolén.
La Cochinchine française est pacifiée, le traité signé,
les forces de Sa Majesté Catholique rentrée à Manille,
enfin le corps expéditionnaire de Chine revenu au centre
de sa station.
J'ai remis la service au contre-amiral de la Grandière,
et pars par le Packet du 1er mai.
Je suis, ectc.
Signé: BONARD
.
*
Discours du vice-amiral gouverneur et commandant en
chef en Cochinchine, plénipotentionnaire de S.M l'Empereur,
au roi d'Annam.
Je suis envoyé par S.M. l'Empereur des Français pour
echanger les ratifications du traité de paix approuvé
par S.M. l'Empereur et recouveert du sceau de ses armes,
ainsi que pour transmettre à S.M. le roi d'Annam les
félicitations de S.M. l'Empereur.
S.M. l'Empereur des Français espère que la paix et
l'amitié dureront éternellement entre la France et le
Royaume d'Annam.
Sa Majesté fait des vœux por la prospérité de ce royaume,
ainsi que pour la personne de son roi.
*
Réponse faite au nom de S.M. le roi d'Annam aux ministres
pléniptentionnaires de France et d'Espagne.
Les ambassadeurs qui ont eu à supporter de grandes
fatigues pour venir jusqu' ici ont donné la preuve de
leurs mérites. C'est pourquoi S.M. l'empereur d'Annam
les loue et les felicite à cause de leur mission.
Lorsque les ambassadeurs seront de retour auprès de
leurs souverains, ils leur diront que la paix étant
aujourd'hui conclue, dorénavant toutes choses devront
se traiter pacifiquement, et l'amitié la plus sincère
devra éternellement durer pour le bonheur de chacune
des trois nations.
Que les ambassadeurs gravent ces paroles dans leur
mémoire: c'est pour cela que Sa Majesté les a prononcées.
*
Tạm dịch:
TRAO ĐỔI HIỆP ƯỚC PHÊ CHUẨN VỚI VƯƠNG QUỐC AN NAM
Bộ trưởng bộ hải ngoại và thuộc địa đã nhận được bản
phúc trình sau đây của đề đốc ủy nhiệm Bonard :
Kính thưa ngài bộ trưởng ,
Bản chức hân hạnh được báo cáo đến ngài bộ trưởng về
những tình hình đã xảy ra tại Nam Kỳ trước khi bàn giao
công vụ qua cho phó đề đốc la Grandière để bản chức
khởi hành trở lại Pháp quốc.
Ngay sau cuộc nổi dậy đã dược trấn áp trong khắp các
tỉnh thuộc quyền kiểm soát của người Pháp và trật tự
được vãng hồi một cách cụ thể, bản chức cảm thấy hân
hoan vì mọi sự việc đều được đặt trở lại trong tình
trạng bình thường.
Ngay tức khắc, bản chức đã cho hộ tống hạm la Sémiramis
của đề đốc Jaurès chở các đoàn khinh binh trở sang Trung
Quốc; các đoàn khinh binh nầy nguyên trước đây được
đưa vào từ phía bắc và chiếc hộ tống hạm vừa kể đã có
thể chạy ngang qua vụng biển Đà Nẵng mà không làm chậm
trễ chuyến hành trình của nó để đưa bản chức đến địa
điểm thi hành một trách vụ có tính cách quyết định là
việc phê chuẩn hiệp ước, một sự phối trí rất thuận lợi
để biểu dương lực luợng với chính quyền An Nam, một
lực lượng đáng kể sẵn sàng hành động.
Và như vậy tư lệnh hải quân các vùng biển Trung Quốc
có thể rời vụng cảng Đà Nẵng vào ngày 5 tháng 4 d.l
và trở về ngay căn cứ của ông, căn cứ của những lực
lượng thiết yếu sau khi thực hiện một công tác để chứng
tỏ sự chiếm hữu mới mẻ của chúng ta trong vùng viễn
Đông.
Tất cả quân đoàn tác chiến Y Pha Nho đã rời Sài Gòn
trở về Phi Luật Tân trên chiếc chuyển vận hạm l'Européen,
và chiến hạm nầy sẽ sang Hong-Kong để sửa chữa và bảo
trì.
Hoà bình đã chế ngự khắp nơi. Dân chúng bản xứ phải
đi làm xâu phá bỏ các công sự chiến đấu (của quân kháng
chiến = chú thích của người viết), xây đắp lại cầu đường
bị hủy hoại, dựng lại cột dây thép (điện thoại), tất
cả để bù đắp lại các phí tổn xây dựng thiết đặt các
đồn bót mà chúng ta bắt buộc phải thực hiện vì sự nổi
loạn.
Tất cả những phương thế nầy đều đang được thi hanh;
các đường dây thép đã được phục hồi, hoạt động trở lại.
Để tránh sai lầm, những sự lề mề chậm trễ trong giao
dịch với người Á châu, bản chức đã phải dự kiến mọi
thứ và được liệt kê ra trên giấy tờ cùng với hai quan
đại thần, tổng đốc Bình Thuận họ Lam (Lâm Duy Hiệp/Thiếp)
và khâm sai tổng đốc Vĩnh Long Phan-Tan-Gianh (Phan
Thanh Giản) do bản chức triệu mời họ tới Sài Gòn.
Sau khi mọi việc đã được giải quyết bằng giấy mực với
hai quan đại thần nầy, bản chức liền đưa họ đi trước
về Huế vào ngày 1 tháng 4 d.l bằng tuần thám hạm le
Forbin để họ lo các thủ tục chuẩn bị.
Riêng bản chức cũng xuống soái hạm la Semiramis vào
ngày 2 tây, với 2 chiến hạm Cosmao và la Grenada cùng
hộ tống hạm Y Pha Nho la Circé chở sứ thần của nữ hoàng
(Y Pha Nho) đi theo. Đoàn tàu chiến của chúng tôi thả
neo trên vụng cảng Tourane (Đà Nẵng) vào ngày 5 tây;
cùng ngày nầy đề đốc Jaurès trực chỉ sang Trung Hoa.
Mọi thứ đều được dự trù cho cuộc tiếp rước chúng tôi:
các quan đại thần từ thủ đô Huế đứng khắp các chặng
đường để chào đón, để sắp xếp nơi cư ngụ, phu khuân
vác, trạm tiếp liên, thực phẩm cho chúng tôi cùng với
đoàn quân hộ tống gồm cả trăm người được tuyển chọn
từ các binh chủng khác nhau.
Các doanh trại của chúng tôi được sắp xếp thật chu
đáo và đồng nhất trên tất cả mọi chặng đường giúp cho
chúng tôi trở thành quen thuộc không bị bỏ ngỡ dò tìm
nơi trú ngụ của mình.
Quân binh hộ tống của chúng ta được tuyển chọn từ những
đơn vị ưu tú của nhiều binh chủng khác nhau được cấp
cho một số tiền để hộ thân chi dùng khi gặp chuyện bất
cập trong chuyến hành trình, họ đã giữ được một lối
cư xử không thể nào chê trách được và những người đảm
trách nhiệm vụ khuân vác đã được trả công đền bù bằng
tiền thưởng mà từ trước tới nay họ chưa từng thấy như
thế bao giờ, cho thấy diễn tiến hoà bình trong suốt
hành trình của chúng tôi khắp miền Nam Kỳ đã tạo được
một sự thiện cảm tuyệt hảo đối với dân chúng.
Đoàn vệ quân danh dự chủ lực của triều đình Huế đã
được dàn xếp, điều động đúng với các nghi thức mong
muốn, trong suốt hành trình họ luôn luôn tỏ nét cung
kính trân trọng với bản hòa ước đặt trên một cái bục
sơn son (màu đỏ) và mỗi khi đoàn chúng tôi ngừng chân
ngơi nghỉ ở các trạm, bản hòa ước được đặt an vị trên
trang thờ ở trong chùa, miếu. Ngoài ra, họ cũng tiếp
tay phụ giúp cho các phu khuân vác khi gặp trở ngại
khiến cho cuộc hành trình của chúng tôi luôn luôn được
suông sẻ; các quan triều và các quan chức địa phương
đã chăm lo chu đáo không để thiếu sót một chút gì.
Phái đoàn chúng tôi tới thủ đô Huế vào ngày 10, giữa
một đoàn người hộ tống đông đảo thuộc đủ mọi thành phần
quân binh chủng chủ lực trên suốt dọc lộ trình, đi đầu
là các cai cơ và đội trưởng, và đoàn chúng tôi được
các quan thượng thơ đứng đón rước từ ngoại thành để
hướng dẫn đưa chúng tôi đến trại trú ngụ được xây dựng
cạnh bờ hào hoàng thành.
Trong suốt chuỗi ngày lưu trú, đoàn chúng tôi đã được
đối xử tương kính ngang bằng và chúng tôi đã có thể
tiến hành ngay việc sắp xếp các thủ tục cần thiết cho
việc ký kết trao đổi hòa ước một cách chính thức cũng
như các nghi thức yết kiến hoàng đế.
Trước khi phái đoàn khởi hành từ Sài Gòn, tất cả đều
đã được thiết định bằng văn bản cùng chung với hai vị
khâm sai toàn quyền Lam và Phan-Tan-Gianh.
Ngày 14, tại Phu Vân Lâu, chúng tôi đã cử hành trọng
thể nghi thức trao gởi hòa ước đã được hoàng thượng
Tu-Duc phê chuẩn.
Dịch bệnh tiêu chảy đang hoành hành ở Huế đã tạo ra
một sự mất mát nhạy cảm đối với chúng ta: đó là cái
chết gần như là đột ngột của quan đại sứ Lam trước sáng
ngày trao đổi hòa ước chuẩn phê vì ông đã kiệt lực trong
thi hành nhiệm vụ sắp xếp bố trí từ đầu chí cuối cuộc
lễ nầy.
May thay, cái chết rất đáng tiếc nầy không làm ngăn
trở cho các công việc kết thúc vì nhờ có sự hiện diện
của Phan-Tan-Gianh.
Ngày 16, sau khi hoàng đế Tu Duc ra chỉ dụ ngưng thi
hành bài diễn văn của bản chức theo hình thức một sự
hồi đáp cho bản chức về các địa điểm và các dạng nghi
thức cần phải theo, phái đoàn chúng tôi đã có thể vào
diện kiến với hoàng đế trong nội thành.
Tất cả những nét huy hoàng xa hoa đông phương đều được
triều đình nước An Nam phô diễn trong dịp nầy: hơn 20,000
quân lính thuộc nhiều binh chủng khác nhau xếp hàng
suốt dọc lộ trình của chúng tôi; những con voi trận
cùng với voi riêng của hoàng cung được trang sức bằng
các tấm phủ và có nài cởi điều khiển tạo thành một nét
đồ sộ uy vệ lấn lấp mất các sắc màu binh phục đơn điệu
sặc sỡ chóa mắt bao trùm khắp nơi trong hoàng thành.
Đoàn quân hộ vệ riêng có mang khi giới của phái đoàn
chúng tôi theo lệ thường ở nơi đây phải dừng lại ở trước
cổng vào chính điện của vương triều, chúng tôi trình
diện trước hoàng đế Tu-Duc.
Theo tục lệ của chúng ta, phái đoàn được miễn bái lạy
(đại bái) và vẫn được phép mang gươm theo mình; và như
đã được thỏa thuận, chúng tôi chỉ phải nghiêng mình
cung bái 1 lần khi tiến đến gần ngai vua và 3 lần cung
bái để chào đưa khi hoàng đế hồi cung.
Vua An Nam, xuất diện trong một ngự cung rộng lớn trang
hoàng cờ xí lụa là, bao quanh bởi các vương tôn công
tử trong vương tộc có ít nhất từ 50 đến 200 người, chúng
tôi được tiếp rước tới một chiếc bàn thếp vàng.
Tất cả các quan chức của triều đình, các vị đại quan,
các nho thần, cận vệ của nhà vua mặc sắc phục bằng gấm
tơ đều hiện diện nơi đây cùng với chúng tôi.
Sau khi được hướng dẫn vào vị trí, bản chức hướng thẳng
về phía nhà vua để đọc bài diễn văn đã được thỏa thuận
giữa hai bên và bản chức đính kèm bài diễn văn nầy gởi
đến ngài bộ trưởng.
Bài diễn văn được lặp lại bằng tiếng Hán (Trung Hoa)
qua sự thông dịch của hạm trưởng hộ tống hạm đại úy
Aubaret và kế tiếp là khâm sai đại thần Phan-Tan-Gianh
đọc bài đáp từ mà một thành viên trong ban tư vấn của
chúng ta đã trao cho chúng ta ngay sau đó để gởi kèm
theo với phúc trình nầy.
Ngay sau buổi lễ, cuộc đưa tiễn chúng tôi về nơi trú
sứ cũng linh đình như lúc đón tiếp với sự hiện diện
của các quan thượng thơ và các quan khâm sai của nhà
vua.
Đức vua cũng có trao gởi đến hoàng đế (Napoléon III)
một văn bản viết tay rất trang trọng và tôn kính cùng
đưa lời nhắn gởi nói với bản chức rằng sau khi chính
thức chuẩn phê hoà ước, đức vua nghĩ cần phải có những
lời hoàn toàn do chính tay đức vua viết ra để bản chức
đích thân chuyển trình lên hoàng đế nước Pháp.
Ngày 18, chúng tôi trở lên tàu hơi nước la Grenada
đậu trên sông Hương phía trước hoàng thành Huê' để có
thể phòng ngừa cho đoàn binh hộ tống mệt mỏi không bị
bệnh dịch tả lây nhiễm và khỏi phải di hành bằng đường
bộ từ thủ đô về vụng cảng Đà Nẵng.
Vì sự yêu cầu như vừa kể trên được chấp thuận nhờ vậy
bản chức có thể khởi hành trở về Sài Gòn vào buổi sáng
ngày 19, với hai binh sĩ bị thiệt mạng, một thuộc đội
binh Tây Ban Nha và một thuộc đội binh thủy bộ vì quá
sức mệt mỏi và bị lây nhiễm bệnh dịch tả đang lan tràn
khắp nơi, giết hại rất nhiều nạn nhân trong dân chúng
ở Huế.
Tóm lại, kính thưa ngài bộ trưởng, bản hoà ước do hoàng
đế chuẩn phê và phái đoàn của hoàng đế đã được tiếp
nhận, đối xử một cách trọng thể chu đáo tại thủ đô vương
quốc An Nam.
Cuộc hành trình ngắn ngủi của phái đoàn chúng ta đã
tạo ra một hiệu qua tốt đối với dân chúng.
Ước muốn có một sứ đoàn sang Paris bệ kiến hoàng đế
đã nhiều lần được biểu lộ một cách chính thức cũng như
ước muốn gởi một số người trẻ thuộc gia đình quyền quý
có học vào Sài Gòn cũng như sang nước Pháp để học văn
minh và xây dựng của người Âu châu.
Bản chức xin gởi tới ngài bộ trưởng nguyên văn bản
hiệp ước đã được đức vua Tu-Duc chuẩn phê, một lá thơ
tự viết của đức vua gởi đến hoàng đế và một triệu đồng
tiền bồi phí chiến tranh như đã thỏa thuận.
Bởi vì không có đủ thời gian chuẩn bị lễ vật xứng đáng
để gởi tặng hoàng đế cho nên đức vua An Nam đề nghị
rằng đức vua sẽ bù đắp lại sự thiếu sót nầy khi đoàn
sứ của đức vua được chấp nhận sang bệ kiến đức hoàng
đế Napoléon.
Lãnh thổ Nam Kỳ của người Pháo đã được bình định, hòa
ước đã ký kết, đoàn quân của nữ hoàng theo gia tô giáo
(nữ hoàng Tây Ban Nha) đã quay về căn cứ ở Manille (Phi
Luật Tân) và đoàn quân viễn chinh Pháp từ Trung quốc
đã quay về căn cứ trung ương của họ.
Bản chức đã bàn giao nhiệm vụ lại cho phó đề đốc la
Grandière và rời nhiệm sở vào ngày 1 tháng 5 d.l.
Bản chức, etc.
Ký tên: BONARD
*
Diễn văn của đề đốc nhiệm chức thống đốc kiêm tổng tư
lệnh quân lực ở Nam Kỳ, đại nhiệm hoàng đế (Pháp) phát
biểu trước vua An Nam.
Hạ thần được hoàng đế nước Pháp sai đến đây để thi
hành việc trao đổi bản hiệp ước hòa bình đã được hoàng
đế phê chuẩn có đóng ấn triện quân quyền, đồng thời
chuyển đến đức vua nước An Nam những lời chúc mừng của
hoàng đế.
Hoàng đế nước Pháp mong ước rằng hòa bình và tình hữu
nghị sẽ lâu bền mãi mãi giữa nước Pháp và vương quốc
An Nam.
Hoàng đế cầu chúc thịnh vượng cho vương quốc và đức
vua.
*
Thay mặt vua An Nam để đáp từ diễn văn của các sứ thần
Pháp và Tây Ban Nha.
Các vị sứ thần đã tỏ ra thật xứng đáng khi đã chịu
bao nhiêu gian lao đến đây. Bởi lẽ ấy, hoàng thượng
nước An Nam ban lời ngợi khen sứ mạng của họ.
Sau khi trở về vương quốc của mình, các sứ thần hãy
chuyển lời rằng hoà bình ngày nay đã được thể hiện dứt
khoát, từ đây trở về sau tất cả mọi việc đều phải được
đối xử một cách hòa bình và tình hữu nghị bền vững,
trung thực cần phải được củng cố vì phúc lợi của cả
ba nước.
Các vị sứ thần cần ghi khắc những lời nầy trong tâm
trí: bởi lẽ đó mà đức vua mới truyền ban chỉ dụ nầy.
Chương
20
Qua bản phúc trình của Bonard có thể rút ra những nhận
xét như sau:
* 1-/ Bonard là một tướng lãnh gan dạ, và mưu lược:
- Ông ta đích thân mình mạo hiểm đi vào tận lòng địch
để trao và nhận bản hiệp ước phê chuẩn.
- Ông ta biết lợi dụng việc rút lui của đoàn thuyền
chiến Pháp trên đường trở về căn cứ ở vùng biển Trung
Quốc để phô trương thanh thế "combinaison qui a
présenté l'avantage de faire voir au gouvernement annamite
une force respectable prête à agir."(một sự phối
trí rất thuận lợi để biểu dương lực lượng với chính
quyền An Nam, một lực lượng đáng kể sẵn sàng hành động.):
chiến hạm Sémiramis với đoàn khinh binh của đề đốc Jaurès
thả neo trên vụng biển Đà Nẵng vào ngày 5 tháng 4 d.l
năm 1862. Ngoài ra còn có chiến hạm Européen trên đường
chuyên chở đoàn quân tăng viện của Y Pha Nho trở về
căn cứ Phi Luật Tân và hành trình của chiến hạm nầy
nhất định là có ghé ngang vụng Đà Nẵng để yểm trợ thanh
thế cho hộ tống hạm la Circé chuyên chở sứ thần đại
diện nữ hoàng Y Pha Nho trong công tác trao đổi hiệp
ước phê chuẩn cùng một lúc với Bonard. Hai chiến hạm
Cosmao và la Grenada cũng có mặt, tất cả tạo thành một
bối cảnh chuẩn bị chiến tranh, sẵn sàng đổ bộ lên bờ
khi cần.
-Lực lượng quân binh hộ tống cho 2 phái đoàn Pháp-Y
Pha Nho từ Đà Nẵng tới hoàng thành Hué chỉ có 80 người
(40 người cho mỗi phái đoàn) được tuyển lựa từ các hàng
quân binh chủng ưu tú thiện chiến của liên quân xâm
lược Pháp-Y Pha Nho ở Nam Kỳ. Đi sâu vào lòng đất đầy
bất trắc hiểm nguy của địch mà chỉ mang theo có bấy
nhiêu quân binh, phải chăng Bonard bất cẩn hay chỉ vì
quá xem thường đánh giá quá thấp quân binh của triều
đình nhà Nguyễn ở Huế? Dù rằng Bonard là một kẻ cao
ngạo nhưng ông ta không phải là một kẻ bất cẩn đến mức
không nhìn thấy trước được những nguy cơ khi đem thân
vào chốn quân binh muôn trùng của địch quân bởi thế
cho nên mới có cả một hạm đội hùng hậu chuyên chở một
đoàn quân thiện chiến Pháp-Pha Nho biểu dương lực lượng
nơi vụng cảng Đà Nẵng. Nếu Bonard tin tưởng tuyệt đối
vào thiện chí hòa bình của vua quan, binh triều nhà
Nguyễn thì tại sao lại cần phải có màn hù dọa phô trương
thanh thế, sức mạnh quân sự như thế. Con số 80 quân
binh thiện chiến quyết tử hộ tống Bonard cùng 2 phái
đoàn Pháp-Y Pha Nho đi sâu vào lòng đất địch để vào
hoàng cung với khí giới đầy đủ và tối tân là một con
số đáng kể đối với một quân đội "chưa đánh đã chạy"
của triều đình Tự Đức.
Số 80 quân binh hộ tống nầy cộng thêm những người tháp
tùng theo 2 phái đoàn kể cả những thông dịch viên người
Pháp (không có thông dịch viên người bản xứ nước Đại
Nam đi theo phái đoàn Pháp-Y Pha Nho) có thể là kết
quả từ sự thỏa thuận giữa đôi bên sau khi Phan Thanh
Giản và Lâm Duy Hiệp trở vào Sài Gòn bàn bạc với Bonard
về việc tổ chức các nghi thức trao đổi hiệp ước phê
chuẩn.
Thử đặt trường hợp đội quân của Bonard đã vào được
hoàng thành và tìm cách đến gần và uy hiếp bắt giữ được
vua Tự Đức và buộc quan binh triều đình phải rút ra
khỏi hoàng thành rồi cố thủ chờ viện binh Pháp-Y Pha
Nho từ Đà Nẵng đến tăng viện thì tình thế sẽ ra sao?
-Chuyện nầy không phải là không thể xảy ra bởi vì trước
đây liên quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho sau khi đánh chiếm
thành Sài Gòn vào ngày 19 tháng 2 d.l năm 1859, đề đốc
Rigault de Genouilly đã dẫn gần hết đoàn quân của mình
trở ra vụng cảng Đà Nẵng mà chỉ cần để lại một đội quân
nhỏ un petit corps de troupe do thuyền trưởng Jauréguiberry
ở lại chỉ huy để cố thủ đồn Nam sau khi thành Sài-Gòn
bị phá hủy bởi lệnh của R.de Genouilly. (A.Schreiner;
sách đã dẫn; trang 145, 146) vậy mà cả một tập thể quân
đội của triều đình Huế ở Nam Kỳ cũng không đủ khả năng
đánh chiếm lại thành Gia Định đổ nát hoặc bao vây đánh
hạ được đồn Nam do Jauréguiberry trú đóng!
-Một nhà quân sự có tầm cỡ như Bonard chắc là phải
có dự định một phương cách "bắt cóc" mạo hiểm
như vừa giả định ở trên và nếu tiếp tục đọc lại sử sau
thời Bonard thì người ta sẽ thấy rằng phó thuyền trưởng
pháo thuyền máy hơi nước Gia Định Doudard de Lagrée
chỉ cần có 28 lính thủy để chiếm hoàng cung của vua
Cao Miên Norodom vào ngày 3 tháng 3 d.l năm 1864 và
treo cờ Pháp khắp nơi dinh thự, cơ quan, đơn vị hành
chánh công cộng trên đất Cao Miên để rồi hai ngày 6
và 7 cùng tháng đó mới được tăng viện thêm 3 pháo thuyền
và 100 binh sĩ. (A. Schreiner; sách đã dẫn, trang 256
và trang 258).(Cũng xem: Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân
Khảo Chú Giải & Khảo Luận VI; trang 1719, 1720).
-Sách "LA CONQUÈTE DU TONKIN par VINGT SEPT FRANÇAIS
commandés par JEAN DUPUIS (tạm dịch: Cuộc chinh phục
Bắc Kỳ bởi 27 người Pháp dưới sự chỉ huy của Jean DUPUIS)
do tác giả Jules GROS trích đăng từ quyển nhựt ký của
J. Dupuis; nhà phát hành Maurice Dreyfous-Paris; 1880)
cho thấy cả một đoàn quân triều đình ở Bắc Thành mà
cũng không thể nào ngăn chận được một nhóm nhỏ 27 người
Pháp mạo hiểm, vong mạng, khinh thường và vi phạm luật
pháp của nước Đại Nam mặc tình làm mưa làm gió nghênh
ngang khắp nơi trên đất Bắc Kỳ. Trang 25, 26, 27 trong
sách kể trên có liệt kê dầy đủ tên tuổi nghề nghiệp
của 17 người Pháp giữ vai chủ động và 10 thủy thủ người
Pháp tham dự cuộc chinh phục nầy:
1- E.Millot, thương nhân ở Thượng Hải (Trung Quốc),
đã từng nhiều năm giữ chức chủ tịch hội đồng thành phố
nơi khu nhượng địa thuộc Pháp ở Thượng Hải. Phó trưởng
đoàn thám hiểm của J.Dupuis ở Bắc Kỳ.
2- Ducos de la Haille, kỷ sư công chánh ở Pondichéry
(Ấn Độ), thành viên trong hội đồng thành phố khu nhượng
địa thuộc Pháp ở Thượng Hải. Chuyên viên khám phá hầm
mõ trong đoàn thám hiểm J.Dupuis.
3- Dercour, phụ tá Ducos de la Haille trong đoàn thám
hiểm J.Dupuis
4- G.Viavianos, nguyên là thuyền trưởng hàng hải ven
bờ, thuyền trưởng tàu máy hơi nước Hong-Kong, sĩ quan
quân cảnh quân đoàn Pháp-Trung ở Tche-Kiang. Thiếu tá
thuyền trưởng tàu máy hơi nước Hong-Kiang trong đoàn
thám hiểm J. Dupuis.
5- Brocas, nguyên là thuyền trưởng hàng hải ven bờ.
Thiếu tá thuyền trưởng tàu hơi nước Le Pontay trong
đoàn thám hiểm J.Dupuis. (ghi chú riêng: có thể là tàu
hơi nước Son Tay thay vì Pontay)
6- D.Argence, nguyên là sĩ quan hàng hải thương thuyền,
thiếu tá thuyền trưởng tàu hơi nước Lao-Kaï trong đoàn
thám hiểm J.Dupuis.
7- Boucagnani, Thiếu tá thuyền trưởng tàu Mang Hào trong
đoàn thám hiểm J.Dupuis.
8- Berthault, sĩ quan hàng hải ven bờ, Phó thuyền trưởng
tàu Lao Kaï trong đoàn thám hiểm J.Dupuis.
9- Gauchon, sĩ quan hàng hải ven bờ, Phó thuyền trưởng
tàu Hong Kiang trong đoàn thám hiểm J.Dupuis.
10- Légier, cựu sĩ quan pháo thủ, Phó thuyền trưởng
tàu Sơn Tây trong đoàn thám hiểm Jean Dupuis.
11- Francelli, chuyên viên đại pháo, Phó thuyền trưởng
Mang Hào, trong đoàn thám hiểm Jean Dupuis.
12- Dillère, thợ máy tàu Lao Kaï trong đoàn thám hiểm
Jean Dupuis.
13- Gervais, nguyên là thợ máy tàu chiến Y Pha Nho,
thọ máy tàu Hong Kiang trong đoàn thám hiểm Jean Dupuis.
14- Davis, thợ máy tàu Mang Hào trong đoàn thám hiểm
Jean Dupuis.
15- Bégault, nguyên là một đội trưởng đội pháo binh
hải quân, được đưa sang để chỉ huy đội pháo binh của
tổng đốc tỉnh Vân Nam/ Trung Quốc nay tham gia đoàn
thám hiểm Jean Dupuis.
16- Fargeau, nguyên là quản đốc xưởng đúc được đưa sang
đảm nhiệm một xưởng đúc cho tỉnh Vân Nam/Trung Quốc,
nay tham gia đoàn thám hiểm Jean Dupuis.
- 10 thủy thủ người Âu châu.
Và:
!7- Jean Dupuis, trưởng đoàn thám hiểm Bắc Kỳ.
Tổng cộng là 27 người Âu châu trong đoàn thám hiểm
Jean Dupuis.
-Ngoài ra còn có thêm một quan triều người Hoa mà trong
nhật ký của mình J. Dupuis gọi là mon sécrétaire Ly-ta-lào-yé,
mandarin lettré chinois (tạm dịch: thư ký riêng của
tôi là Lý Ngọc Trì, một quan triều Trung Quốc) (J.Gros,
sách đã dẫn, trang 31).
*
Có những điểm cần lưu ý như sau:
-Tác giả Jules Gros dùng chữ Expédition: cuộc thám
hiểm để chỉ đoàn tàu và nhóm người đi theo J.Dupuis
và E.Millot là loạn ngôn và thậm xưng nhằm mục đích
tôn vinh hành vi của những kẻ mạo hiểm, hám lợi buôn
lậu súng óng đạn dược, xem thường luật pháp của nước
khác. Trong quyển nhật ký của mình, J.Dupuis đã che
lắp không nói ra đoàn ghe thuyền của ông ta đã chở theo
những gì sang cảng Hải Phòng.
Vậy thì dựa vào đâu để biết rằng đoàn ghe thuyền thương
hồ nầy chuyên chở vũ khí đạn dược?
Trước hết, Paulin Vial - một thành viên quân sự của
đoàn quân xâm lược Pháp ở Nam Kỳ/Giám đốc Sở Nội Vụ
ở Sài Gòn- đã ghi lại những biến cố xảy ra từ năm 1873
đến tháng 4 d.l năm 1887 có liên hệ đến việc người Pháp
xâm chiếm Bắc kỳ trong một quyển sách có tựa đề là Nos
premières Années au Tonkin do nhà xuất bản Voiron phát
hành năm 1889. Nơi trang 45 của sách nầy có một đoạn
ghi chép về việc lái buôn J.Dupuis như sau:
<<M.Dupuis poursuivit son entreprise. Il acheta
trois petites navires à vapeur à Hong-Kong et à Sanghai
et les arma pour se rendre au Tonkin.>> (Tạm dịch:
Ông Dupuis tiếp tục công việc của ông. Ông ta mua ba
chiếc tàu nhỏ chạy bằng hơi nước từ Hong-Kong và từ
Thượng Hải rồi trang bị vũ khí cho hai tàu nầy để đi
xuống Bắc Kỳ).
Trang bị vũ khí, đây là một trong những kiểu viết luồn
lách, che đậy có thể tìm thấy khắp cùng nơi các nhà
chép sử ngày trước, Tây cũng như ta, khi họ đang là
những quan viên của chính quyền hay của các triều đình
chuyên chính phong kiến và ngay cả trong thời buổi văn
minh tiến bộ ngày nay tình trạng viết lách cong vẹo,
che đậy, viết không trung thực theo chỉ đạo của quyền
lực chính trị vẫn còn tiếp tục xảy ra trong các quyển
sách lịch sử tại khá nhiều nơi ở thế giới nhất là ở
khu vực Á Châu, vùng Đông Nam Á. Rõ ràng là có tình
trạng phủ bênh phủ, huyện bênh huyện trong lối viết
của Paul Vial.
- Tựa đề cao ngạo trên quyển sách của tác giả người
Pháp Jules Gros khiến cho hậu thế hiểu lầm rằng đoàn
ghe thuyền của Jean Dupuis chỉ có 27 người vừa kể. Trên
thực tế, trong đoàn nầy còn có Lý Ngọc Trì là kẻ đại
diện của triều đình Trung Hoa lúc đó cấu kết với đoàn
người buôn lậu nầy.
-Theo nhật ký của J.Dupuis thì khởi đầu đoàn buôn lậu
nầy từ Hong Kong đến vịnh Bắc bộ với 2 pháo thuyền chạy
bằng máy hơi nước Hong Kiang, Lao Kaï , 1 xuồng lớn/
sà lúp Sơn Tây chạy bằng máy hơi nước, và kéo theo 1
ghe mành:
<<26 octobre 1872.- Nous quittons aujourd'hui,
à six heures du matin, notre mouillage devant Hong Kong,
en route pour le golfe du Tong-Kin, où nous devons trouver
le Bourayne. L'expédition se compose de deux canonnières,
à vapeur, le Hong Kiang et le Lao Kaï, d'une chaloupe
à vapeur le Sơn Tây et d'une grande jonque à la remorque
. . .(J.Gros; La Conquète du Ton-Kin par Vinght sept
Français/ Cuộc Chinh Phục Bắc Kỳ bởi 27 người Pháp,
trang 30).
Tạm dịch: <<26 tháng 10 d.l năm 1872.- Hôm nay
vào lúc 6 giờ sáng, đoàn tàu, thuyền của chúng tôi từ
bến cảng Hong Kong nhổ neo đi sang vịnh Bắc bộ để tới
điểm hẹn với hộ tống hạm le Bourayne (ghi chú thêm:
hộ tống hạm Le Bourayne được chính quyền xâm lược Pháp
từ Sài Gòn phái ra vụng cảng Hải Phòng để can thiệp
với chức quyền Đại Nam ở Hà Nội và yểm trợ cho đoàn
thám hiểm J.Dupuis được tự do lưu thông trên sông Hồng.
Tàu nầy do thiếu tá hải quân Senez chỉ huy. Senez đã
dùng tàu Sơn Tây của J.Dupuis để đi gọi viên quan kinh
lựợc triều đình Lê Tuấn đến bàn bạc.) Đoàn thám hiểm
gồm có 2 pháo thuyền chạy máy hơi nước Hong Kiang và
Lao Kaï, 1 xuồng sà-lúp lớn chạy bằng máy hơi nước Sơn
Tây kéo theo một ghe mành.>>
- Đại tá pháo binh H.Fabre de Navacelle, tác giả tập
giản yếu Précis des Guerres De La France de 1848 à 1885
(do nhà phát hành sách E.Plon, Nourrit et Cie, Paris;
xuất bản tại Paris năm 1890) nơi trang 350, 351, 352
và 353 có viết về việc J.Dupuis mua bán quân nhu và
vũ khí như sau:
<<. . . .La rébellion des musulmans de l'ouest,
surtout dans le Yunnan avait la nécessité l' achat par
le gouvernement chinois d'approvisionnements de guerre
cosidérables. M Dupuis en avait fourni beaucoup, surtout
au Ti-taï-Ma-hien, le vainqueur des rebelles du Yunnam.
C'est par le fleuve Bleu ou Yang-tse-kiang, où il avait
rencontré Francis Garnier em 1868 et recueilli ses instructions,
que Dupuis avait fait parvenir des armes et des munitions
à Yunnam. Quoi que les rebelles eussent été vaincus
et, en grande partie, refoulés vers la frontière du
Laos et du Tonkin supérieur, qu'ils occupaient et rançonnaient
sous le nom de Pavillons noirs et Pavillons jaunes,
de grands marchés de fournitures étaient encore en voie
d'exécution entre Ma et M.Dupuis. . . . .
M. Dupuis prépara à Hong-Kong une grande expédition.
Une jonque portant trente canons, et de six à sept
mille chassepots avec les munitions nécessaires, convoyés
par deux canonnières d'origine anglaise et ayant bord
vinght-trois Européens, une centaine de Chinois, était
dirigée par M.Dupuis et trois lieutenants intrépides
comme lui. Recommandé par le commandant senez au commissaire
royal Le Tuan, il trouva pourtant sur sa route des obstacles
de toutes sorte et, laissant son convoi à Hanoï, remonta
jusqu ' au Yunnam avec trois européens et une quarantaine
de Chinois.>>
Tạm dịch: << . . .Vì có cuộc nổi loạn của những
bộ tộc Hồi giáo ở phía Tây (Trung Quốc), nhất là trong
vùng tỉnh Vân Nam, cho nên chính quyền Trung Quốc cần
phải mua thật nhiều các loại chiến cụ. Ông Dupuis đã
từng cung ứng rất nhiều cho nhu cầu nầy, nhất là cung
cấp cho thống chế Mã Hiên, kẻ chiến thắng dẹp loạn ở
Vân Nam. (có sách dịch là thống chế Mã Văn Long, một
tướng giặc gốc người Hồi giáo về đầu hàng chính quyền
triều đình Bắc Kinh rồi được Bắc Kinh giao nhiệm vụ
đàn áp những cuộc nổi dậy của các bộ tộc theo đạo Hồi).
Chính con sông gọi là Thanh-Giang hay Dương Tử Giang
là nơi mà Ông ta ( J.Dupuis) đã gặp và nhận những chỉ
thị của Francis Garnier vào năm 1868 cũng như đã từng
dùng con sông nầy để chuyên chở súng đạn vào tỉnh Vân
Nam (Trung Hoa). Mặc dù nhóm phiến loạn (Hồi giáo) phần
lớn bị đánh tan rả, họ lại rút lui về phía vùng biên
giới nước Lào và các vùng thượng du ở Bắc Kỳ và trở
thành các nhóm thổ phỉ mang danh hiệu Cờ Đen (do đầu
lĩnh người Trung Hoa tên là Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu) và
Cờ Vàng, (do đầu lĩnh người Trung Quốc tên là Hoàng
Sùng Anh cầm đầu) và những chuyến hàng cung cấp cho
các thị trường quy mô (ý muốn nói buôn bán hàng lậu,
súng lậu cho các nhóm thổ phỉ) vẫn tiếp diễn qua đường
dây họ Mã và Dupuis. . . . . . . . . . . . . . . . .
Ông Dupuis chuẩn bị một chuyến hành trình lớn từ Hong-Kong.
Một chiếc ghe mành chở 30 khẩu đại pháo, 6,000 - 7,000
súng trường và đạn dược cần thiết được hộ tống bởi hai
pháo thuyền kiểu Anh quốc cùng với 23 người Âu Châu
và hàng trăm người Trung Hoa dưới sự chỉ huy và điều
động của ông Dupuis và 3 viên quan trung úy cũng gan
lì như ông ta. Mặc dù được hải quân trung tá Senez can
thiệp với quan kinh lược Lê Tuấn, ông ta vẫn gặp rất
nhiều trở ngại khó khăn và phải để đoàn tàu thuyền của
ông ta ở lại (Hà Nội) và đi lên Vân Nam (theo sông Hồng)
với 3 người Âu Châu và 40 người Trung Hoa.>>
*Ghi Chú thêm: Theo Nhật ký ngày 18
tháng 1 dl năm 1873 của J. Dupuis thì vào lúc 7 giờ
sáng ngày nầy Dupuis khởi hành đi Vân Nam với một tàu
sà lúp hơi nước kéo theo 3 chiếc thuyền mành "có
trang bị súng óng" với 9 người Âu Châu và 30 người
Trung Hoa. Số tàu thuyền và nhân sự còn lại phải neo
chờ ở Hà Nội dưới quyền chỉ huy của viên phụ tá Millot.
(J.Dupuis, sách La Conquête du Tonkin par vingt- sept
Français đã dẫn, trang 57)
- Đoàn người của J. Dupuis khi từ vùng đất Mang Hào
ở Vân Nam xuôi theo sông Hồng quay trở về Hà Nội có
thêm 30 lính và 100 thủy thủ khuân vác. (Tàu Mang Hào
có thể xuất phát từ một vùng lãnh thổ có tên là Mang
Hào ở Vân Nam cho nên người Pháp gọi là tàu Mang Hào).
- Sau nầy, Francis Garnier và lái buôn Jean Dupuis
chỉ có dưới tay khoảng 90 binh sĩ xung kích và trong
vòng 7 giờ đồng hồ mà đã có thể hạ thành Hà Nội vào
ngày 20 tháng 11 d.l năm 1873 (Quý Dậu) do hơn 7 tới
8 ngàn quan binh của triều đình nhà Nguyễn đóng giữ
dưới quyền thống lãnh của danh tướng Nguyễn Tri Phương:
trong trận nầy Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và bị
quân Pháp bắt tại trận, con trai của ông là phò mã Nguyễn
Lâm trúng đạn chết.
Tất cả những truy cứu vừa kể ra ở trên cho thấy:
-Tình trạng yếu kém về mặt quân sự của nước Đại Nam
dưới thời Tự Đức từ Bắc chí Nam: quân binh nhát sợ,
súng đạn cổ lỗ, cấp chỉ huy kém khả năng ứng phó chỉ
biết ngồi chờ làm theo lệnh phát ra từ trung ương.
-Quân xâm lược Pháp và dư luận người Pháp quá tự tin
về sức mạnh xâm lược của họ cho nên đã huênh hoang phô
trương quá đáng, tự đánh giá mình quá cao.
*
2/ Hơn 20,000 quân lính thuộc nhiều binh chủng khác
nhau xếp hàng suốt dọc lộ trình cùng với những con voi
trận để tiếp đón đdoàn sứ thần Pháp-Y Pha Nho:
Nếu con số nầy không bị Bonard phóng đại quá mức thì
cũng sẽ gây thắc mắc cho hậu thế tại sao tiếp rước một
đoàn sứ thần ngoại quốc chưa đầy 100 người tới kinh
đô mà Tự Đức và triều đình Huế lại phải điều động một
số quan binh khổng lồ như thế?
Chương
21
Con số nầy do hai bên đã thỏa thuận ấn định trước đây
khi bàn bạc về các việc sắp xếp nghi thức trao đổi hòa
ước Nhâm Tuất (1862) sau khi được hai bên phê chuẩn?
Hay là Bonard đích thân nhởn nhơ và thong dong đếm số
được 20,000? Phải chăng đây là một chuyện bày binh bố
trận của triều đình Huế biểu dương lực lượng để răn
đe đối phương "chớ có nên dở trò" thừa cơ
làm chuyện càn rỡ tại kinh đô Huế? Hay là phía Đại Nam
muốn dùng số đông để thừa cơ hội nầy bắt sống nhóm đại
diện thế lực xâm lược làm con tin trao đổi cho việc
đòi trả lại những vùng đất đã mất?
Tất cả những câu hỏi vừa kể trên đây chỉ là những suy
đoán dựa trên tài liệu do một nhân vật lịch sử vào thời
đó (Bonard) viết ra khi người nầy đang ở trên vị thế
của kẻ thắng trận; mà những kẻ thắng trận thì thường
hay kiêu ngạo, lấn lối, lộng ngôn, khinh thường hạ thấp
giá trị của phía bại trận nhằm mục đích phô trương tài
cán và công trạng lẫy lừng của mình.
*
Tuy nhiên nếu xét cho cùng thì sự huênh hoang phô trương
của người Pháp không phải là không có lý do: đất nước
Đại Nam tồi tệ thụt lùi dưới quyền lãnh đạo của một
tập đoàn quân chủ phong kiến ngủ mê ở kinh đô Huế là
một thực tế hiển nhiên mà sử sách nhà Nguyễn dưới thời
Tự Đức không thể nào che đậy được:
- Cả một nước Đại Nam từ Bắc chí Nam phần lớn trông
nhờ vào lúa gạo cấy trồng từ các vùng đất ở Nam Kỳ vì
thế khi bị ngoại bang cấm vận thì cả nước nhốn nháo
lo sợ:
<<Các ông đòi tiền, chúng tôi trở thành bần cùng.
Như thế phải chăng là một cảnh tượng thú vị dâng lên
cho đấng tạo hóa với bao nhiêu tai họa do các ông gây
ra? Nay các ông lại chận ngăn lúa gạo và người dân của
chúng tôi sẽ bị chết đói." Đây là một phần văn
thư phúc đáp của quan khâm sai đại thần quân thứ Biên
Hòa Nguyễn Bá Nghi gởi cho Charner khi Charner ra lệnh
cấm chuyên chở lúa gạo trên khắp các vùng sông, biển
ở Nam Kỳ hạ. Rồi cuối thư, với lời lẽ không kém phần
tự phụ: "Và bởi vì đó là nguồn mạch cuối cùng mà
quan soái để lại cho chúng tôi, vậy thì chúng tôi còn
có súng đạn, chúng tôi sẽ chiến đấu." Đó chỉ là
câu nói liều trong một trạng huống bối rối nguy kịch
chứ không thể đe dọa được kẻ địch bởi vì Charner đã
trả lời một cách tách bạch dứt khoác là ông ta "sẽ
cố gắng đẩy lui súng đạn bằng súng đạn". (Xin đọc
lại nơi trang 22).
- Sức mạnh quân sự quốc phòng lấy tướng giỏi, tàu thuyền,
súng óng, đạn dược tân tiến và tinh thần chiến đấu dũng
cảm của quan binh làm nòng cốt cho việc gìn giữ trật
tự an ninh trong nước và đẩy lui giặc xâm lăng ngoại
bang:
-Tướng giỏi của triều đình nhà Nguyễn dưới thời Tự
Đức? Ngoài hai ông Nguyễn Tri Phương và Trương Minh
Giảng thì còn ai nữa đâu! Cả một nước mà có tới 2 ông
tướng giỏi, có nhiều lắm không? Giỏi ở đây cũng chỉ
có thể so đo với các nước láng giềng sát cạnh như Lào,
Cao Miên, Tiêm La mà thôi. Binh sĩ của ông hoàng đế
tổng tư lệnh quân đội Tự Đức thì sao? Họ chỉ có vẻ uy
hùng khi được ban phát áo mũ sum xoe để trình diễn trong
các cuộc lễ hội diễn binh chứ ngoài chiến trường thì
họ chỉ có biết chạy trốn.
- Súng đạn, tàu chiến thì vào thời Tự Đức có những
gì? Có nhiều lắm, do ông cố tiên đế Gia Long để lại
và thêm vài chiếc tàu bọc đồng cũ mua lại của ngoại
quốc qua các triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị, tất cả
mọi thứ đều quá xưa cũ cách xa thời Tự Đức gần cả trăm
năm! Súng trường trang bị cho binh sĩ đa số là súng
mang nhãn hiệu Pháp từ năm 1777 trở về trước và có cả
loại súng trường cổ lỗ kiểu châm ngòi lửa của Trung
Quốc. Loại súng năm 1777 chỉ bắn xa được 250 mét.
Trong khi các loại súng trường mới lòng có đường vòng
khương tuyến của liên quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho kiểu
năm 1853, 1854, 1857 có tầm bắn xa hiệu quả là 1,200
mét (hơn một cây số ngàn).
Đại pháo lòng không có đường vòng khương tuyến có từ
thời Gia Long không thể nào bắn xa như các khẩu đại
pháo lòng có vòng khương tuyến của quân xâm lược: trong
trận đánh nơi chiến lũy Kỳ Hòa, Charner đã dùng đến
ba khẩu đại pháo loại lòng lớn đạn 4 cân Anh (khoảng
2 kí lô)có đường vòng khương tuyến và bốn khẩu trọng
pháo lòng lớn có vòng khương tuyến đạn 12 cân Anh (khoảng
6 kí lô) để đánh hạ chiến lũy Kỳ Hòa kiên cố do danh
tướng Nguyễn Tri Phương trấn đóng. (A. Schreiner; sách
đã dẫn; trang 151).
Hai tác giả Bouianais và Paulus cho biết trong một
quyển sách viết chung của họ có tựa đề là L' Indochine
française contemporaine, nơi trang 11, thì vào thời
điểm trước khi tấn công chiến lũy Kỳ Hòa các khẩu đại
pháo lòng 160 ly có vòng khương tuyến, đạn tròn nặng
30 cân Anh (khoảng 15 kí lô đã được quân Pháp-Y Pha
Nho bố trí từ những ngày cuối tháng 2 d.l năm 1861.
Các khẩu đại pháo nầy mượn từ các chiến hạm lớn của
Charner, mỗi khẩu nặng khoảng 3,500 kilô, có tằm tác
xạ hữu ích là 6,250 mét theo một góc độ là 35o. (A.
Schreiner; sách đã dẫn; trang 157; phần ghi chú số 2).
Loại đại pháo cổ từ thời Gia Long lòng súng không có
vòng khương tuyến, bắn một viên đạn tròn nặng 8 cân
Anh (hay 4 kílô) chỉ có một sức bắn xa là 800 mét hay
với một góc độ lớn tối đa thì cũng chỉ bắn xa được không
quá 1,500 mét; một đại pháo cùng loại nhưng lòng có
đường khương tuyến, bắn đi một viên đạn nặng 4 kilô
sẽ có tằm tác xạ hữu ích là 3,200 mét(A.Schreiner; trang
151,152) tức là từ đồn Cai Mai (có sách gọi là đồn Cây
Mai) quân Pháp có thể di chuyển các khẩu đại pháo nầy
đến gần chiến lũy Kỳ Hòa khoảng 3 cây số để dùng cách
đánh bắn phá thành lũy trước rồi tung quân tiến chiếm
sau (Tiền pháo hậu kích).
-Nội tình an ninh trong nước bất ổn. Giặc thổ phỉ Cờ
đen, Cờ Vàng, Cờ trắng đến từ Trung Quốc lộng hành ở
Bắc Kỳ (A.Schreiner page 311) khiến cho quan binh triều
đình chỉ còn biết quanh quẩn trú an trong thành Hà Nội
và các thành quách ở các tỉnh lân cận. Tệ hại hơn nữa
là chính quyền Đại Nam ở Bắc Kỳ còn trọng dụng giặc
thổ phỉ Cờ đen, thả lỏng cho bọn họ tung hoành nghênh
ngang, vơ vét, cướp phá dân chúng khắp nơi. Ba nhóm
giặc thổ phỉ nầy là dư đảng của một tổ chức nội phản
khởi phát từ năm Kỷ Dậu (niên hiệu Tự Đức thứ 2 / 1849)
ở Tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa có tên là Thái Bình Thiên
Quốc do Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quí,
Lý Tú Thành chủ xướng, chiếm giữ vùng Kim Lăng và nhiều
tỉnh ở về phía Nam sông Trường (Trường Giang). Triều
đình Trung Hoa nhờ có ngoại quốc tiếp tay nên đánh tan
nhóm nội phản và bình định các tỉnh phía Nam. Tàn dư
của Thái Bình Thiên Quốc gồm có 3 nhóm Cờ Vàng, Cờ Đen,
Cờ Trắng, tất cả khoảng 3,000 người do Ngô Côn làm đầu
lãnh chạy trốn, tràn sang biên giới phía Nam để bắt
đầu cướp phá gây tàn hại cho dân chúng Đại Nam ở các
tỉnh giáp giới với Trung Hoa. Sau khi Ngô Côn chết,
3 nhóm giặc Cờ hiềm khích, tranh giành quyền lợi với
nhau: ở miền thượng du Bắc Việt thì nhóm thổ phỉ Cờ
Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu quấy nhiễu vùng lãnh thổ
Lào Cai, và nhóm thổ phỉ Cờ Vàng do Hoàng Sùng Anh cướp
bóc mạn Hà Giang. Chính quyền nhà Nguyễn ở Bắc Việt
bất lực không thể dẹp yên giặc thổ phỉ ở vùng biên giới
cho nên phải chịu liên kết với nhóm Cờ Đen để chống
trả nhóm Cờ Vàng, phó mặc vùng Lào Cai cho Lưu Vĩnh
Phúc trọn quyền làm chủ và mặc tình vơ vét. Thổ phỉ
Trung Hoa hoành hành khắp các miền Lạng Sơn, Cao Bằng,
Thái Nguyên, Tuyên Quang. Tàn dư của nhà Hậu Lê là Hoàng
Tề lại nổi lên thông đồng với đám cướp biển tàu-ô Trung
Quốc cướp phá khắp vùng Quảng Yên và Hải Dương mãi về
sau mới bị quân thứ của tỉnh Hải Dương bắn hạ ở huyện
Thanh Lâm tuy nhiên giặc tàu-ô vẫn tiếp tục cướp phá
ở ngoài biển. Tháng 7 năm Nhâm Thân (1872) triều đình
Huế phải cử danh tướng Nguyễn Tri Phương làm Tuyên-sát
đổng-sức đại thần ra Bắc lo việc quân cơ và bình định
nhưng cũng không đạt được một thành tích khả quan nào.
*
Về thời điểm trao đổi hoà ước ngày 9 tháng 5 âl năm
Nhâm Tuất/ niên hiệu Tự Đức thứ 15 tức là ngày 5 tháng
6 d.l năm 1862, trong phiếu trình của Bonard được đăng
lại trên tập san Revue Maritime et Coloniale có ghi
rõ là phái đoàn sứ Pháp-Y Pha Nho khởi hành từ Sài Gòn
ra Đà Nẵng vào ngày 2 tháng 4d.l năm 1863, đến vụng
cảng Đà Nẵng ngày 5 tháng 4 dl, và đến kinh đô Huế ngày
10 tháng 4 dl. năm 1863.
Phái đoàn sứ của Pháp gồm có: cầm đầu là đề đốc ủy
nhiệm Bonard, thống đốc, chỉ huy trưởng quân đội Pháp
ở Nam Kỳ, đại sứ toàn quyền của hoàng đế Napoléon III;
đại tá hải-lục quân Reboul, tổng tham mưu trưởng;Tricault,
đệ nhị ủy nhiệm thay mặt bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc
địa; đại úy hạm trưởng Aubaret, thanh tra trưởng Á Châu
sự vụ, đệ tam ủy nhiệm; phó hạm trưởng Buge.
Sứ thần đại diện cho nữ Hoàng Tây Ban Nha là đại tá
chỉ huy trưởng đoàn quân viễn chinh Tây Ban Nha Palanca
Guitierrez.
*
Về thời điểm trao đổi hoà ước Nhâm Tuất, sử sách Việt
Nam ghi chép khác với các sự ghi chép được tìm thấy
trong các thư tịch của người Pháp:
Sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên và Quốc triều Chánh
Biên Toát Yếu ghi chuyện nầy xảy ra trong tháng 2 âm
lịch năm Quý Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 16 (1863).
1-/ Sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên, ghi chép về những
việc trong năm Quý Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 16 (1863):
<< Quý Hợi, Tự Đức thứ 16 (1863) (Thanh, Đồng-trị
năm thứ2). Mùa Xuân, tháng Giêng, Tiết Nguyên đán .
. .( ĐNTLCB; đệ tứ kỷ; quyển XXVII; trang 5). . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . .Tướng nước Phú (tức nước Pháp) cho phái viên
đến báo kỳ sứ đến tháng 2 (âl) và phúc tư về điều khoản
nên làm trong khi sứ bộ đến>>.
Vua cho là việc dề nghị đó hãy còn chưa thỏa đáng,
bèn sai Phạm Phú Thứ sai làm khâm sai đại thần đến nơi
hội tề với Phan Thanh Giảng, Lâm Duy Thiếp bàn nói với
tướng nước Phú . . ..>> (ĐNTLCB; đã dẫn; trang
6) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
<< Tháng 2, sứ thần của 2 nước Phú -Lãng-Sa và
I-Pha-Nho là bọn Phô-na, Bờ-lăng-ca (đều là tướng kiêm
chức sứ thần), đến kinh sư, ở vào quán mới sông Hương
(2 chánh sứ, 2 phó sứ, 2 bồi sứ, 2 tham biện, võ chức
quản lãnh 4 người, lục sự 2 người, tham tán 1 người,
hộ lễ ` người, thông ngôn 1 người, y sinh 1 người, cộng
16 viên danh. Thuyền 5 chiếc, mỗi chiếc quân đi theo
hơn 150 người. Khi đến cửa Đà Nẵng Quảng Nam, chỉ đem
theo một chiếc thuyền và 100 người lính thôi; đến cửa
biển Thuận An, đi bộ đến Kinh . . ..( ĐNTLCB; đã dẫn;
trang 9) . . . . . .
2-/Sách Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu viết rõ hơn:
<<Năm Quý Hợi thứ XVI,(1863) tháng Giêng, quan
soái Pháp sai người đến báo rằng: trong tháng 2 Annam,
Sứ sẽ tới Kinh, và nói những điều khoản sứ bộ nên làm.
Ngài xét trong mấy điều khoản, còn có chỗ chưa thỏa,
liền sai Phạm Phú Thứ sung khâm sai tới Nam kỳ hội hội
với Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp để thương thuyết
cùng quan soái Pháp, hổ thương xong rồi, thời 3 người
đều phải đi trạm về trước cho gắp, đặng sung làm chức
tiếp sứ. Đến Gia Định, 3 người hội thương với nguyên
soái, trong mấy điều khoản đó, cũng có điều theo tục
Đại Pháp, cũng có điều theo lẽ nước ta, đặng tỏ lòng
cung kính.; 3 người cùng bàn với Pháp-soái và quan đại
thần nước Y-pha-nho hội bàn phép tắc vào chầu thế nào,
rồi về tâu trước, Ngài chuẩn y nghị mà làm>> (SQTCBTY;
bản dịch; in năm 1925, trang 337).
Trong loạt bài viết Notes pour servir à l'histoire
de l'établissement du Protectorat français en Annam
của tác giả Lê Thanh Cảnh đăng trên Đô Thành Hiếu Cổ
Tập San, số thứ 4/ tháng 10-12/ 1937 (trang 391) cũng
ghi vào tháng tháng 2 âl như sau :
<<Réception des Envoyés français et espagnol.
Dans le courant du ler mois de la 16e année de Tự-Đức
(1863) (tức tháng Giêng niên hiệu Tự Đức thứ 16) le
Commandant en chef français fit annoncer à la Cour l'arrivée
des Envoyés français et espagnol pour le deuxième mois,
et notifia le protocole — légèrement modifié — de leur
réception à Hué. Sa Majesté, peu satisfaite du protocole
communiqué, envoya en Cochinchine PHẠM-PHÚ-THỨ pour
s'entendre avec PHAN-THANH-GIẢN et LÂM-DUY-HIỆP pour
l'établissement d'un nouveau programme de réception
des Envoyés.
Après accord avec les Plénipotentiaires français et
espagnol, PHẠM-PHÚ-THỨ revint à Hué, avec PHAN-THANH-GIẢN
et LÂM-DUY-HIỆP rendre compte à Sa Majesté de láccomplissement
de leur mission.
La Cour s'apprêtait alors à recevoir les Plénipotentiaires.
Dans le courant du 2è mois (tức tháng 2 âl), M. BONNARD
représentant la France, et M. PALANCA représentant l'Espagne,
firent leur entrée dans la Capitale d'Annam (le Commandant
en chef français représentaitle Gouvernement français).
Ils furent reçus dans le nouveau Hôtel des Ambassadeurs,
construit au bord de la Rivière des Parfums>>.
Tạm dịch: <<Trong vòng tháng Giêng niên hiệu Tự
Đức thứ 16, viên tư lệnh Pháp (Bonard) tuyên bố là đoàn
sứ Pháp và Tây Ban Nha sẽ đến vào tháng thứ hai (ý ở
đây là tháng 2 âm lịch chứ không phải tháng 2 dương
lịch = Février), và cho biết về nghi thức đã được thay
đổi một ít cho thích hợp cho cuộc tiếp đón đoàn sứ tại
Huế.
Hoàng thượng không hài lòng với kiểu cách tiếp đón
do người Pháp thông báo cho nên lại cử Phạm Phú Thứ
vào Nam Kỳ để cùng với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp
để bàn thảo một chương trình bàn thảo về nghi thức đón
tiếp đoàn sứ Pháp-Tây Ban Nha.
Sau khi thỏa hiệp với các khâm sứ Pháp và Tây Ban Nha,
Phạm Phú Thứ trở về Huế cùng với Phan Thanh Giản và
Lâm Duy Hiệp để tấu trình lên hoàng thượng là họ đã
hoàn tất nhiệm vụ giao phó.
Triều đình chuẩn bị tiếp đón đoàn sứ.
Trong vòng tháng thứ hai, ông Bonard đại diện cho Pháp,
ông Palanca đại diện cho Tây Ban Nha đến kinh đô của
nước An Nam (tổng tư lệnh quân sự Pháp (Bonard) đại
diện cho chính phủ nước Pháp). Họ được rước đón và đưa
đến Toà dinh tiếp sứ trên bờ sông Hương.>>
A .Schreiner trích dẫn bài viết của Vial về tiến trình
trao đổi bản hoà ước năm Nhâm Tuất (5 tháng 6 dl năm
1862) sau khi đã được hoàng đế Pháp quốc, nữ hoàng Y
Pha Nho và hoàng đế nước Đại Nam ký phê chuẩn như sau
:
<<D'après Vial, le Forbin, parti le 6 Mars, portait
la notification de ratifier le traité immédiatement.
A la date du 15, la cour demande un dernier délai d'un
mois en raison de la fête du sacrifice au ciel et à
la terre. Il n'en est guère tenu comte et, le 1er Avril,
le Forbin, revenu à Saigon, reçoit à son bord Phan Thanh
Giảng et Lâm Duy Hiệp, ainsi que MM. le lieutenat de
vaisseau Amirault et le lieutenant d'infanterie espagnol
Illana chargé d'accompagner les présents offerts à l'Empereur
Tự Đức par LL.MM l'Empereur Napoléon III et la reine
Isabelle II. Le 3 Avril, l'amiral Bonard embarque lui
même sur la frégate la Sémiramis ayant à bord le contre
amiral Jaurès, le bataillon d'infanterie légère qui
retounait à Schanghai et le personel de la légation
française. La frégate était accompagnée de la corvette
à vapeur Cosicao, du steamer Grenada et de la corvette
Circé enue des Philipines avec le personel de la légation
espagnol.
Le 5 Avril, on mouille sur rade de Tourane et, le jour
même l'amiral Jaurès continua sa route vers Schanghai
. . . . .
Le 6 on descend à terre. Le 7 on se met en route avec
une escorte de 300 soldats annamites et de 400 porteurs.
Le 10 vers midi, les légations arrivent à Huế. Après
les visites d'usage, les traités ratifiés sont échangés
les 13 et 14 Avril. La journée du 15 est marquée par
la mort bien regretable de Lâm Duy Hiệp, l'un des deux
plénipotentiares annamites. Le Choléra l'avait enlevé
en quelques heures. Le 16, les légations sont reçus
par Tự Đức.
Le 18 Avril au soir, les légations, ayant termimé leur
mission, reprennent le chemin de Tourane par la rivière
sur les jonques impériales. Le 19 au matin, elles embarquent
à bord du Grenada qui appareille le mêm jour et arrive
à Saigon le 22 Avril . . .
A son retour à Saigon, l'amiral Bonard, dont la santé
avait été fortement ébranlé par les travaux et les soucis
de son gouvernement, remit la direction de la colonie
au contre amiral de la Grandière. Le 30 Avril, il fit
ses adieux aux officiers réunis dans le salon du gouvernement
et leur présenta son remplaçant >> (Vial) ( Shreiner;
trang 252, 253)
Tạm dịch:
<<Theo tác giả Vial thì tàu chiến Fobin đã ra
đi (từ Sài Gòn ra Huế) từ 6 tháng 3 dl (năm 1863) mang
theo bản thông báo về việc phải chuẩn y bản hòa ngay
lập tức. Ngày 15, triều đình yêu cầu một gia hạn cuối
cùng một tháng để tiến hành lễ hiến tế Trời Đất (Tế
Đàn Nam Giao). Lời yêu cầu gia hạn đó không được ưng
thuận. Tàu Forbin trở về Sài Gòn, để rồi ngày 1 tháng
4 dl lại chở Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp, cùng với
phó hạm trưởng là Amirault, trung úy bộ binh Tây Ban
Nha là Illana mang quà cáp của hoàng đế nước Pháp Napoléon
III và của nữ hoàng Isabelle II (nữ hoàng nước Tây Ban
Nha) ra triều đình Huế để biếu tặng hoàng đế Tự Đức.
Ngày 3 tháng 4 dl (ĐTLCB ghi là tháng 2 âl: có thể là
táng 2 nhuận mới đúng chăng?) Bonard lên tàu khu trục
hạm Sémiramis của phó đề đốc Jaurés có nhiệm vụ chở
tiểu đoàn khinh binh của Pháp về Thượng Hải (Trung Quốc)
cùng với phái đoàn của Pháp. Khu trục hạm nầy được bảo
vệ bởi hộ tống hạm chạy bằng máy hơi nước Cosicao, Grenada
và Circé đến từ Phi Luật tân, chuyên chở phái đoàn Tây
Ban Nha.
Ngày 5 tháng 4 dl, đoàn tàu (Pháp Tây ban Nha) bỏ neo
ở vụng biển Đà Nẵng và cùng ngày hôm đó tàu của phó
đề đốc Jaurés tiếp tục hành trình về Thượng Hải . .
. .
Ngày 6 thán 4 dl, hai phái đoàn Pháp - Tây Ban Nha
lên bộ. Ngày 7 khởi hành bằng đường bộ với 300 lính
tập An Nam và 400 trăm phu khuân vác. Trưa ngày 10,
phái đoàn tới Huế. Sau những nghi lễ viếng thăm thông
thường, là nghi thức trao đổi các bản hòa ước trong
2 ngày 13 và 14. Ngày 15 đáng ghi nhớ vì cái chết rất
đáng tiếc của Lâm Duy Hiệp, một trong hai viên toàn
quyền đặc sứ. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, bệnh
dịch tả đã giết chết ông Hiệp.
Ngày 16 phái đoàn được Tự Đức tiếp kiến.
Vào buổi chiều ngày 18 tháng 4 dl, sau khi đã hoàn
thành nhiệm vụ lại bắt đầu trở ra Đà Nẵng bằng đường
sông do các thuyền chiến của triều đình chuyên chở.
Sáng ngày 19, đoàn tới vụng Đà Nẵng và lên tàu chiến
Grenada đã tới cùng một ngày đợi ở đó và về tới Sài
Gòn ngày 22 tháng 4. . . .
Về đến Sài Gòn, Đề đốc Bonard, sức khoẻ suy giảm vì
làm việc quá sức với những phiền não gây ra từ chính
quyền của ông (ở Sài Gòn), ông trao quyền cai trị lãnh
thổ thuộc địa cho phó đề đốc de la Grandière. Ngày 30
tháng 4, ông (Bonard) từ biệt nhân viên viên chức nơi
phòng khách dinh toàn quyền và giới thiệu người thay
thế ông . . . .>>
*
Tự Đức tiếp kiến các sứ thần ở điện Thái Hoà
Sách Đại Nam Thực Lục ghi chép việc nầy như sau
Chương
22
<<Chuẩn cho sứ thần 2 nước Phú Lang Sa và Y Pha
Nho làm lễ triều yết. Trước kỳ 2 sứ thần nước ấy đều
đem quốc thư (có đóng dấu ấn của 2 nước) và phẩm vật
của 2 vua nước ấy nhờ quan có chức trách dâng lên, lại
kính nhận lãnh quốc thư của nước ta. (Ngày đến của biển
Thuận An , sứ thần trước hết ủy một viên chức đệ phẩm
hạng tới sứ quán kính để đấy. Nước ta sai quan kiểm
nhận tiếp đệ hộ đợi cùng với quốc thư (bản hoà ước đã
được kiểm nhận = chú giải của VSTK) cùng tiến. Ngày
hôm sau ngày đến sứ quán, sứ thần xin dâng quốc thự
Viên khâm phái đại thần nước ta đem đồ binh trượng,
long đình, tàn lọng nhã nhạc đến tiếp đệ, tiến lên hoàng
thượng xem xong, lại rước quốc thư nước ta kính đệ đến
nhà sứ quán đúng như nghi thức, giao cho sứ thần ấy
kính lãnh). Đến ngày triều yết, vua ngự điện Thái Hòa
(đặt nghi lễ đại triều) sứ thần tới sân ra mắt vua.
(Hôm ấy đón đến xưởng Hữu tướng quân, những quân theo
sứ thần đi, đóng lại ở đấy, sứ thần do cửa Hữu Khuyết
vào, đón đến nhà rạp kết hoa nghĩ một lúc để chờ; lại
đón vào bệ son đứng vào ban. Ban thứ nhứt 2 viên chánh
sứ đứng, ban thứ 2 phó sứ, bồi sứ, tham tán. Đệ nhị
ban phó 5 viên đứng, ban thứ 3 tham biện, vỏ quan 6
viên đứng. Trước hết làm lễ vái một vái, đọc lời kính
chúc, dịch ra tiếng ta xong, quan bộ Lễ bèn truyền chỉ
nói: Hoàng đế rất vui vẻ, tỏ hết hậu tình, gửi lời thăm
hoàng đế 2 nước được mạnh giỏi. Tuyên đọc xong lại dịch
ra tiếng Pháp cho biết. Sứ thần làm lễ vái ba vái rồi
lui ra. Các quan làm lễ triều yết, rồi đưa sứ thần về
rạp kết hoa nghĩ một lúc, rồi đón về sứ quán. Làm lễ
xong, mời ăn tiệc ở nhà sứ quán, đưa lại tiền bồi thường
(đĩnh mười lạng, cộng 13,004 đĩnh, thành 186,111 đồng
bạc Tây dương). Các phẩm hạng tặng vua hai nước và tướng
sứ trở xuống đều có thứ bậc khác nhau . . .>>
(ĐNTLCB/đệ tứ kỷ/ quyển XXVIII; bản dịch; trang 10-11).
Đoàn Thọ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Phạm Phú
Thứ, Nguyễn Quan, Đặng Hạnh, Phạm Ý, Lê Tuấn tất cả
đều bị Tự Đức trách phạt vì không lập được công trạng
gì trong cuộc thương thuyết với người Pháp-Tây Ban Nha.
*
Năm Quý Hợi, tháng 3 âl, Tự Đức thứ 16 (1863), Nguyễn
Trường Tộ trao cho Trần Tiễn Thành một bản trần tình
kèm theo 3 lá thư luận bàn khác nhau với 3 tiêu đề:
1/- Thiên Hạ Đại Thế Luận.
2/-Tế Cấp Luận.
3/-Giáo Môn Luận.
Bản trần tình và 3 lá thư nầy có ý tỏ rõ tâm sự, giải
thích lý do tại sao Tộ làm việc cho người Pháp và đồng
thời cũng xin triều đình sửa đổi chính sách cai trị
cho hợp với thời thế mới. (Xin đọc:Nguyễn Công Tánh;
VSTKCGKL; V; chú giải 12 và 13 từ trang 1516 đến 1533
về Trần Tiễn Thành và Nguyễn Trường Tộ).
*
Quý Hợi, tháng 3 â.l, Tự Đức thứ 16 (1863), sau khi
tiến hành lễ trao đổi hiệp ước năm Nhâm Tuất đã ký ngày
5 tháng 6 d.l năm 1862, triều đình cử một phái đoàn
do Phan Thanh Giản cầm đầu vào Gia Định bàn định việc
quân Pháp trao trả lại cho triều đình Huế tỉnh Vĩnh
Long.
Về việc nầy sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên (ĐNTLCB)
của nhà Nguyễn viết như sau:
<<Sứ 2 nước Phú và Y về Gia Định. Vua sai Phan
Thanh Giản cùng đi. Khi ấy sứ thần nói: về lần nầy sẽ
giao trả Vĩnh Long, nên sai cùng đi, để giao nhận cho
xong việc trước.
Vua lại bảo Thanh Giản rằng: trong thư nghị hòa có nói:
khi nước có việc hoãn cấp, họ cũng cùng phải giúp ta.
Mới đây, miền Bắc, bọn giặc ở sông nước (giặc biển Hải-Yên
ở miền Bắc; xem chú thích (6);VSTKCGKL;VI;trang 1704)
từng thuê tàu của Tây Dương, ở miền Nam, Cao Miên làm
ngăn trở@, cũng nghe tin là viên tướng ấy chủ trương
sai bảo. Nếu không có việc ấy, nên khéo nói với họ,
làm thế nào để cùng giúp cho nhau, đó cũng là một chước
hay để yên cõi ven vậy. Lại, 3 tỉnh nay đã về tay họ
rồi, nên bàn đến việc đường trạm, cho đường xá đi được
đều nhau. Đến cả sự lệ việc thông thương ở cả 3 cửa
biển, cũng nên định rõ. Trong ngoài 1 tháng phải làm
cho xong rồi về Kinh. . . >>(ĐTLCB; q. XXVIII;
trang 11).
---------
@ Ở miền Nam, Cao Miên làm ngăn trở: ở đây Tự Đức muốn
đề cập đến việc quân xâm lược Pháp dành quyền bảo hộ
của triều đình Huế đối với nước Cao Miên. Không thấy
sử sách của nhà Nguyễn viết rõ về việc nầy.
Trước ngày quân xâm lược Pháp đặt chân lên nước Đại
Nam, nước Cao Miên (Cambodge) có lúc là một nước chư
hầu, có lúc là một nước dưới quyền đô hộ của nước An
Nam hoặc của nước Xiêm (Thái Lan) nhưng hầu như chịu
ảnh hưởng đô hộ của người Xiêm nhiều hơn. Một viên quan
của triều đình Bangkok nước Xiêm đóng trụ sở ở thủ đô
mới của nước Cao Miên là Oudong để lãnh trách nhiệm
đô hộ nước nầy.
Từ năm 1812 (niên hiệu Gia Long thứ 11) người Xiêm
đã từng đem quân xâm lăng và chiếm đóng cựu thủ đô Angkor
và tỉnh Battambang của Cao Miên với lý do trá ngụy là
yểm trợ cho vua lưu vong Nặc Ong Nguyên trở về tranh
ngôi báu với vua em là Nặc Ong Chân.
Người Xiêm tiếp tục xâm lấn để chiếm thêm 2 tỉnh Toulé-Repou
và Mouley-Prey của Cao Miên khiến Nặc Ong Chân phải
bỏ thành La Bích (Loveak, một trong những kinh đô ngày
xưa của Cao Miên) chạy sang Gia Định và cầu cứu với
chính quyền Việt Nam (Việt Nam là quốc hiệu nước Đại
Việt của triều đại hoàng đế Gia Long). Quân Xiêm bắt
giữ kiều dân Đại Nam ở đất Chân Lạp. Tướng Việt Nam
giữ đồn Tân Châu là Trần Văn Năng viết thư trách cứ.
Tướng Xiêm đem những kiều dân Việt Nam và một số thuyền
bị quân Xiêm bắt giữ trao trả lại cho Việt Nam.
Tháng 6 âl năm Nhâm Thân (1812), vì bị áp lực của quân
Miến Điện gây hấn, vua Xiêm ra lệnh rút binh ở Chân
Lập về nước rồi sai sứ sang triều cống hoàng đế Gia
Long để giải thích việc đem quân vào Chân Lập là nhằm
mục đích làm cho anh em họ Nặc Ong không tranh chấp
quyền lực lẫn nhau rồi đề nghị đễ quân Xiêm hợp đồng
với quân Việt Nam đưa Nặc Ong Chân trở lại Chân Lập.
Hoàng đế Việt Nam gởi lời quở trách vua Xiêm vô cớ đem
quân Xiêm vào nước Chân Lập và dọa sẽ yểm trợ đưa Nặc
Ong Chân trở lại ngôi vua nước Chân Lập mặc dù sau nầy
vua Xiêm tráo trở, lừa dối, thất tín. Mặt khác, lại
vỗ về, khuyên lơn, giải thích cho Nặc Ong Chân yên tâm
về việc hợp đồng với quân Xiêm.
Năm Quý Dậu, Gia Long năm thứ 12 (1813), tháng 2 â.l,
Triều đình Huế truyền lệnh cho Tổng trấn Gia Định Lê
Văn Duyệt và Hiệp trấn Ngô Nhân Tỉnh phát 13,000 thủy
binh Việt Nam đưa Nặc Ong Chân và các gia thần từ Gia
Định trở về thành Lô Vét (La Bích hay Loveak ở Chân
Lập). Viện trợ thêm cho Nặc Ong Chân 3,500 lượng bạc,
5,000 quan tiền và hàng chục ngàn hộc thóc (hộc: một
loại đơn vị cân đong lúa gạo). Vì quân Xiêm vẫn còn
đóng trên đất Chân Lập, với ý định chia cắt đất Chân
Lập bằng cách chiếm Battambang giao cho Nặc Ong Nguyên
ở Oudong, hoàng đế Gia Long theo lời cố vấn của Lê Văn
Duyệt cho phép quân Việt Nam xây đắp thành Nam Vang
(Phnom Penh) cho Nặc Ong Chân ở, tăng cường thành La
Bích để trữ lương rồi chỉ lưu một số ít quân binh Việt
Nam ở lại Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp, còn đại binh
của Lê Văn Duyệt thì rút về Gia Định. Lại viết thơ trách
cứ vua Xiêm khiến vua Xiêm cũng phải ra lệnh quân Xiêm
rời khỏi Battambang. (xin xem lại VSTKCGKL.III; trang
1027, 1028, 1029; đã phát hành năm 2003). Kể từ lúc
đó, trên thực tế nước Cao Miên kể như bị chia đôi, một
nửa gọi là Cao Miên Thượng do chính vương Nặc Ong Nguyên
ở Oudong cai trị dưới quyền đô hộ của quân Xiêm và một
nửa gọi là Cao Miên Hạ do phó vương Nặc Ong Chân cai
trị ở Phnom Penh dưới quyền đô hộ của quan quân triều
đình nước Đại Nam. Vua nước Cao Miên Hạ Nặc Ong Chân
mất không con trai nối nghiệp. Minh Mạng cho quan triều
đình Việt Nam gốc Chân Lập là Trà Long và La Kiên lãnh
quyền cai trị Cao Miên Hạ dưới quyền kiểm soát của quan
đô hộ Việt Nam là Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương.
Theo lời đề nghị của Trương Minh Giảng, Minh mạng chấp
thuận đặt một người Chân Lập bản xứ là Nhâm Vu cùng
nắm quyền nhiếp chính cai trị, chia Cao Miên Hạ thành
thành 33 phủ của nước Đại Nam. Năm Ất Mùi, Minh Mạng
năm thứ 16, tháng 3 âl (1835), xây đắp thành Trấn Tây
để cho quân binh bảo hộ của Việt Nam trú đóng, bờ thành
cao 9 thước 9 tấc, bề dầy chân thành 1 trượng 8 thước,
tường thành dầy 3 thước 6 tấc, 4 hào thành phía ngoài
mỗi hào rộng 3 trượng 1 thước 5 tấc; riêng hào trước
cửa thành rộng 5 trượng 8 thước 5 tấc. Tất cả hào lũy
đều sâu 1 trượng. (VSTKCGKL.IV; trang 1193).
Sai lập miếu thờ quốc vương Chân Lập. Nhân dịp nầy,
Minh Mạng dụ nội các rằng:
<<Chân Lập làm triều thần nước ta đã hơn trăm
năm, tiến cống cẩn thận. Triều đình cư xử như là một
nước phụ thuộc, gây dựng cho nhiều. Tuy nhiên, vua cũ
nước nầy là Nặc Ong Chân yếu kém không thể tự lực tự
cường. Trong khoảng những niên hiệu Gia Long, có lần
đã bị giặc Xiêm xâm chiếm, Ong Chân đã phải bỏ nước
Chân Lập trốn đi, đến ở thành Gia Định cũ, đất nước
đã không còn là của họ nữa. Hoàng khảo Thế Tổ Cao hoàng
đế nước ta (Gia Long Nguyễn Phúc Ánh) vì thương xót
cho họ đã có lòng thành thần phục nên đã nhiều đời sai
tướng ra quân đánh tan giặc Xiêm, lấy lại nước ấy rồi
phong vương tước cho Ong Chân, cho họ giữ lấy bờ cõi,
không nỡ sáp nhập nước ấy làm thành quận huyện của Việt
Nam. Tuy nhiên, đương sự (Nặc Ong Chân) từ đó chỉ biết
phung phí hưởng thụ, bỏ lơi việc nước. Vào niên hiệu
Minh Mạng thứ 14 (1833), giặc Xiêm lại ngầm đánh úp,
Ong Chân lại chạy trốn đến tỉnh Vĩnh Long, và như vậy
lãnh thổ và nhân dân Chân Lập lại không còn là của đương
sự nữa. Ta đã cử đại quân đánh tan giặc Xiêm, đuổi chúng
ra khỏi bờ cõi, lấy lại thành quách, chiêu tập nhân
dân. Lúc ấy đem nước đó làm thành quận huyện, thì là
ta lấy được của người Xiêm chứ không phải lấy của Chân
Lập. Nhưng nghĩ rằng quốc vương nước đó hãy còn và có
thể cố gắng cho nên lại cho giữ lấy nước, chỉ đặt quân
tướng tham tán để bảo hộ, mong rằng đương sự đời làm
phên dậu, lâu chịu ơn yêu quý. Nào ngờ, quốc vương kia
chết đi, lại không có con trai nối nghiệp, đó là do
ý trời chứ không phải ý người tạo ra. Nếu không xử trí
trước thì nhất định giặc Xiêm lại nhân lúc sơ hở đến
quấy rối thì nhân dân một hạt không khỏi lại bị lầm
than. Vì thế mới sai đặt quận huyện, đặt lưu quan để
cai trị đất ấy, khiến cho người Xiêm phải sợ mà không
còn dám đến xâm lấn mà nhân dân hạt ấy mới được cùng
yên ngủ trong chăn chiếu vậy. Nay quốc vương kia để
lại con gái còn bé là Ngọc Văn cho nên phong làm quận
chúa, Ngọc Biện thì phong làm huyện quân, hậu ban bổng
lộc, cho họ được nương nhờ. Các thổ mục của nước đó
cùng được tùy theo tài cán bà bổ dụng, dân Chân Lập
cũng được đối xử y như là dân kinh Việt Nam. Triều đình
làm như thế là chính đại quang minh. Quốc vương kia
dưới chín suối nếu có thiêng thì cũng nên cám ơn mà
không ân hận gì. Ta lại nghĩ rằng nước ấy dù rằng đời
đời không có vua nhân tài, công đức với dân nhưng vì
từ trước đã từ làm quân trưởng một nước thuộc quốc.
Nay đã sáp nhập vào bản đồ nước ta, thì việc đèn hương
tuế thời thờ cúng cho quốc vương đó không nỡ lại để
cho nguội lạnh, khiến linh hồn không chỗ nương tựa sao?
Vậy sai Ty có chức trách chọn đất lập miếu ở kinh thành,
bày thờ thần vị các quốc vương chân Lập đã quá cố, tuế
thời cúng tế, để tỏ rõ đạo Ưu hậu. >> (ĐNTLCB;
Đệ nhị kỷ; trang 145)
Tháng 8 âl năm Canh Tý, niên hiệu Minh Mạng thứ 21
(1840), thuyên chuyển Mỹ Lâm quận chúa, Thâu Trung huyện
quân Ngọc Thu, Tập Ninh huyện quân Ngọc Nguyên đến ở
Gia Định. Lý do thuyên chuyển: Ngọc Biện ngầm liên hệ
với một người Miên tên Mao (là cậu của Ngọc Biện). Ngọc
Biện bị bắt giam, tước bỏ tước hàm huyện quân. Sau đó
cùng với Mao bị xử chém. Lính và dân Miên (Chân Lập)
ở thành Trấn Tây do huyện úy huyện Thái Thịnh, phủ Ninh
Thái là Tùng Hiên và huyện úy huyện Thượng Phong, Phủ
Nghi Hòa là Đào Vân cầm đầu nổi loạn vì chuyện Ngọc
Biện bị triều đình xử chém. Tùng Hiên nguyên ngày trước
là kẻ theo hầu Ngọc Biện.
Tháng 9 âl, người Miên ở phủ Tỉnh Biên tỉnh Hà Tiên
nổi loạn đánh hãm đồn Châu Nham.
Người Miên loạn khắp nơi, lan tràn ra Hà Tiên, Gia Định,
Định Tường, nơi nơi đều có biến động, chỗ nhiều thì
1, 2 ngàn người, chỗ ít cũng không dưới vài trăm người,
hoặc đánh phá đồn binh hoặc mặt thủy, bộ giết hại dân
Việt Nam chính gốc, quan binh triều đình địa phương
bình định, đánh dẹp không dứt.Minh Mạng bảo với triều
thần rằng:
<<Trước đây Trương Minh Giảng thường nói với
ta là người Chân Lập phần nhiều chất phác thực thà có
thể tin cậy được, có phần hơn người Thổ ở Bắc Kỳ. Ta
cho là không phải. Thực ra người Thổ ở Bắc Kỳ còn có
người biết chữ nghĩa, thạo tiếng người kinh, còn có
thể lấy nghĩa lý hiểu bảo được. Còn như người Chân Lập
thì ù lì như viên đất không biết gì, lại phần nhiều
giảo quyệt dối trá, dù có kề sát tai mà nói cho biết
cũng không thể được Ta đã dự tín sẽ có ngày nầy từ lâu
rồi. Rất may là hiện nay nước nhà cường thịnh, binh
ít thì lấy thêm, lương thiếu thì tăng thêm, nhất định
phải có một phen khó nhọc mới có thể vỗ yên được. Việc
gian nan to lớn như thế thà rằng xảy ra trong thời đại
của ta, không nên để lại cho con cháu đời sau giải quyết.>>(ĐNTLCB
đã dẫn; trang 361,362 và VSTKCGKL.IV; trang 1227,1228,1229,1231).
Dưới thời đại Thiệu Trị, người Cao Miên ở Trấn Tây
(Phnom Penh) thường nổi dậy đánh phá quân đô hộ của
triều đình nước Đại Nam. Tháng Giêng, năm Tân Sửu (1841),
Thiệu Trị lên ngôi hoàng đế tại điện Thái Hòa, đổi niên
hiệu là Thiệu Trị. Để lấy lòng người dân Cao Miên, tháng
2 âm lịch (1841), Thiệu Trị dựng miếu thờ quốc vương
Cao Miên ở xã Dương Xuân, mỗi năm cứ đến mùa Xuân, mùa
Thu thì làm lễ. Lệ tế và đồ thờ cũng cũng giống như
miếu thờ quốc vương Chiêm Thành. Theo lời trình tấu
của kinh lược Phạm Văn Điển và tướng quân Trương Minh
Giảng, tha quận chúa nước Cao Miên là Ngọc Vân, huyện
quân là Ngọc Thu và Ngọc Nguyên về thành Trấn Tây.
Tháng 3 âl/ nhuận (1841), dân Cao Miên ở tỉnh Vĩnh
Long đánh phá phủ Lạc Hóa. Sai Bùi Công Huyên đem quân
bình định.
Tháng 4 âl, sai tham tán Trấn Tây Nguyễn Tiến Lâm đi
giúp Nguyễn Tri Phương dẹp loạn người Miên ở Ba Xuyên
và Lạc Hóa. Nguyễn Tri Phương phá tan loạn người Miên
ở Trà Tâm, Sóc Trăng và Tượng Sơn. Người Miên ở phủ
Lạc Hóa lại vây đánh đồn Nguyệt Lảng. Bùi Công Huyên
đem quân tiểu trừ. Loạn quân người Miên thua chạy tan.
Tháng 5 âl, theo lời tấu trình của Nguyễn Công Trứ,
tha cho tên Yểm cho về Trấn Tây để chiêu dụ dân Miên.
Ngày trước, khi người Miên tên là Yểm quy thuận, họ
hàng thân thuộc đến hơn 9,000 người đều bị phân tán
khắp các tỉnh ở Nam Kỳ, nay cũng tha, cho được đoàn
tụ với nhau. Gia sản của Yểm đều được trả lại đầy đủ
ngoại trừ súng óng và đồ binh khí thì phải bỏ vào làm
của công. Con trai của Yểm tên là Bướm vẫn bị an trí
ở Khánh Hòa.
Bàn định cùng đình thần về việc người Xiêm La (Thái
Lan gây hấn, xúi giục dân Cao Miên tạo loạn ở Trấn Tây.
Tháng 8 âl (1841, Thiệu Trị khiến các quan đại thần
viện Cơ Mật tìm biện pháp giải quyết vấn đề giặc loạn
ở Trấn Tây. Viện Cơ Mật hỏi ý kiến các tướng lãnh ở
Trấn Tây là Phạm Văn Điển, Trương Minh Giảng, Nguyễn
Công Trứ, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn, Cao Hữu Dực:
những tướng nầy đề nghị rút hết quân Đại Nam ở thành
Trấn Tây về An Giang để cho binh lính được đỡ nhọc và
dân chúng ở Nam Kỳ cũng được nghỉ ngơi. Triều thần cũng
đề nghị rút quân. Thiệu Trị đồng ý cho rút quân.
Tháng 9 âl (1841), quan quân ở Trấn Tây lui về An Giang;
ngày về tới đó, Trương Minh Giảng mất. Thiệu Trị định
tội các tướng lãnh đã bất lực làm mất thành Trấn Tây.
Bộ Hình đệ án tâu lên, khép Cao Hữu Dực, Phạm Văn Điển
và Nguyễn Công Trứ vào tội trảm giam hậu (án treo);
từ Lê Văn Đức và Nguyễn Tiến Lâm trở xuống cứ theo thứ
tự mà giảm tội dần. Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Tri Phương
đem quân tới Hậu Giang đánh phá loạn quân ở các sóc,
đánh chiếm được 5 đồn sở, người Hán, người Hoa xin hàng
88 người. Tiếp tục truy kích loạn quân ở sóc Trà Điêu,
bắt được 25 loạn quân người nhà Thanh và 1 loạn quân
người Miên.
Tháng 12 âl, có người tự xưng là con của Anh Duệ hoàng
thái tử ( Anh Duệ tức hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh
con trai trưởng của hoàng đế Gia Long ở thành Nam Vang
(Phnom Penh) tụ họp những quân Xiêm, Lào, Hán, Miên
đến vài ngàn người. Dân giang hồ tứ chiến kéo theo rất
đông. Vì thế Nguyễn Công Trứ, Đoàn Văn Sách và Nguyễn
Công Nhàn đắp 2 đồn phòng thủ ở biên giới Việt Miên
để giữ Hà Tiên và Vĩnh Tế. Vua Thiệu Trị không hài lòng
về việc đắp đồn nầỵ.
Năm Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2, tháng Giêng (1842),
thủy binh Xiêm quấy rối vùng biển Hà Tiên triều đình
cho rằng không đáng chú tâm vì quân Xiêm không có khả
năng gây chiến với Đại Nam. Quân Xiêm lại tiếp tục quấy
rối vùng biển đảo Phú Quốc. Sai Nguyễn Công Trứ đem
quân đánh dẹp. Tháng 2 âl, triều thần báo cáo việc quân
Xiêm cùng quân Miên đánh phá vùng biển Quảng Biên thuộc
Hà Tiên. Sai Lê Văn Đức thống lãnh quân binh cùng với
các tướng Lê Văn Phú, Tôn Thất Tường, Lê Khắc Nhượng
đem binh thuyền từ kinh đô Phú Xuân đến Gia Định, hợp
đồng với quân binh của Quảng Nam, Quảng Ngãi đi đánh
dẹp quân Xiêm. Sai Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Tiến Lâm
đón đánh quân Xiêm-Miên ở Tiền Giang, Nguyễn Công Trứ
cùng với Nguyễn Công Nhàn giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn
Điển và Nguyễn Lương Nhân đón đánh tại Hậu Giang. Ba
đạo quân từ 3 mặt cùng tiến đánh, quân Xiêm cùng giặc
Miên bị đánh tan phải chạy rút về Trấn Tây. Tháng 6
âl (1842), một số dân người Cao Miên không chịu sự xâm
lăng và thống trị quân Xiêm trước đây đã bỏ trốn vào
rừng nay các thổ mục của họ tỏ ý với chức quyền Đại
Nam xin giúp để họ trở về nước cũ. Sai tổng đốc Nguyễn
Tri Phương và tuần phủ Doãn Uẩn vỗ về, thu phục nhóm
người Miên nầy để dùng họ trong việc cai trị ở thành
Trấn Tây trong tương lai. Tháng 8 âl, ra lệnh chuẩn
bị quân binh để đánh Trấn Tây theo lời trình tấu và
đề nghị của Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn. Tháng 10
âl, sai văn võ đại thần duyệt bàn tình hình biên giới
xứ Trấn Tây.
Năm Ất Tỵ, Thiệu Trị thứ 5, tháng 6 (1845), Tuần Phủ
An Giang là Doãn Uẩn cùng với đề đốc Nguyễn Văn Hoàng
chia đường tiến đánh vào nước Chân Lập: quân của Doãn
Uẩn hợp với quan binh Định Tường hạ được 2 đồn Thị Đam,
Vịnh Bích. Đạo quân của Nguyễn Văn Hoàng phối hợp với
quan binh An Giang và Vĩnh Long tiến đánh Tầm Bồn (Battambang),
quân Chân Lập bỏ đồn chạy. Thu được rất nhiều thuyền
bè, khí giới. Truyền dụ cho Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch
và Tôn Thất Nghị ở Gia Định hội đồng với quan binh của
Nguyễn Tri Phương ở An Giang để tiến đánh Chân Lập.
Doãn Uẩn phá tan quân Chân Lập tại một vùng sông ở Sách
Sô rồi tiến đến Bang Chích, đắp đồn đóng giữ. Tháng
7 âl (1845), Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị đưa
quân đến Ba Nam, cho người đi chiêu dụ quân Chân Lập
nhưng họ không chịu đầu hàng mà còn làm đồn, đắp lũy
ở thượng lưu vùng sông chạy ngang đến đồn Thiết Thằng
(đồn nầy giăng dây sắt nên gọi là Thiết Thằng) để giữ
thành Nam Vang. Quan binh triều đình không thể tiến
binh, vua Thiệu Trị ra lệnh đánh gắp. Quân đoàn của
Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn ở Ba Nam tiến đánh và
hạ được đồn Thiết Thằng của quân Chân Lập rồi tiến chiếm
luôn thành Trấn Tây (tức thành Nam Vang /Phnom Penh).
Từ Gia Định, Võ Văn Giải báo trình tin thắng trận về
kinh đô Phú Xuân. Vua liền phái Võ Văn Giải đến Trấn
Tây để ủy lạo và ban thưởng cho các quan binh. Truyền
dụ cho Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn tiếp tục đưa quân
tới Vĩnh Long để truy kích và tảo thanh tàn quân của
Chân Lập. Cũng sai Võ Văn Giai, Tôn Thất Bạch và Nguyễn
Văn Hoàng hành quân chiêu hồi trong các vùng đất Chân
Lập vừa tái chiếm. Ai ra đầu thú mà bắt được quân Xiêm
trên đất Chân Lạp để giải nạp cho quan binh của nước
Đại Nam thì được thưởng và khỏi tội. Thổ mục và Thổ
dân người Chân Lập đem nhau ra đầu thú hơn 23,000 người.
Họ đều nói bị quân Xiêm ức hiếp áp chế nên phải nghe
theo Võ Văn Giải trình tấu xin đặt Nặc Ong Bướm (con
của Nặc Ong Yêm) là quốc trưởng Cao Miên, phái quân
của Đại Nam giám sát, lấy Vĩnh Long làm nơi sở tại để
quân triều đình đóng giữ ở đấy. Triều thần bàn định
không chấp nhận giải pháp của Võ Văn Giải và đề nghị
chia đất Cao Miên thành phủ, huyện rồi giao cho các
thổ mục người Chân Lập đã theo về với triều đình giống
như trường hợp của Trà Long, Nhâm Vu để cai trị dân
Chân Lập. Đề nghị nầy của triều thần được chấp thuận.
Tháng 9 âl (1845), Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem
quân tới Vĩnh Long, loạn quân kháng cự mạnh, quan binh
không thể tiến tới được bằng đường sông. Nguyễn Tri
Phương liền ra lệnh cho quân binh bỏ thuyền lên bộ tấn
công ào ạt, loạn quân vỡ thua, Nặc Ong Đôn và tướng
Xiêm Chất Tri rút quân lui giữ thành U Đông. Bổ dụng
Nặc Ong Bướm làm tuyên phủ sứ vì đã theo về với quan
binh Đại Nam và có công trong chiến dịch chiêu dụ người
Chân Lập. Thành U Đông bị quân Đại Nam vây rất ngặt.
Tướng Xiêm là Chất Tri hai ba lần sai người mang thư
đến trại quân của Võ Văn Giai xin hòa. Triều thần nghị
bàn đề nghị chấp thuận với điều kiện Nặc Ong Đôn phải
ra đầu thú và nước Xiêm phải ký hòa ước với Đại Nam.
Nguyễn Tri Phương tạm ngưng tấn công thành U Đông và
ra kỳ hạn cho Chân Lập và Xiêm La đến ký hòa ước.
Tháng 10 âl, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đề nghị
chọn 20 người Chân Lập tài giỏi vừa mới đầu phục trong
thành Trấn Tây, cho họ giữ các chức phủ úy và huyện
úy (6 phủ và 14 huyện) để họ chiêu dụ dân Chân Lập.
Vua chuẩn y. Tướng Xiêm Chất Tri sai hẹn hội ước và
tiếp tục cố thủ thành U Đông. Nguyễn Tri Phương và Doãn
Uẩn liền ra lệnh tiến đánh giết chết hơn trăm quân địch,
trong số đó một nửa là quân Xiêm. Quân Xiêm-Miên cố
thủ và phản công. Cả hai bên đều bị thiệt hại. Nguyễn
Tri Phương xin viện binh tăng cường. Triều đình gửi
thêm viện binh: cho thự đề đốc Vĩnh Long-Định Tường
Ngô Văn Giai đến Trấn Tây hội đồng với Tôn Thất Bạch
tham biện công việc, sai Nguyễn Văng Hoàng đi Vĩnh Long
hợp cùng Lê Văn Phú và Doãn Uẩn đốc quân đánh dẹp. Lãnh
binh An Giang là Lê Đình Lý cũng được sai đến Trấn Tây
để phòng sai phái.
Tháng 11 âl (1845), chỉ thị cho Nguyễn Tri Phương nên
cứu xét để ký hòa ước với quân Xiêm và Chân Lập nếu
họ thực lòng cầu hòa, nếu không thì thì phải tiến đánh
nhanh chóng cho xong việc. Sau đó Chất Tri lại cho người
đến xin ước hội. Quân Xiêm dựng một nhà lợp tranh nơi
địa điểm hai bên gặp nhau. Nguyễn Tri Phương và Doãn
Uẩn dẫn quân hộ vệ đến hội quán rồi từ của bên trái
đi vào. Chất Tri xuống voi, đi chân không, bỏ hết nghi
thức của người Xiêm rồi từ cửa bên phải đi vào làm lễ
vái chào. Hai bên ký hòa ước nhưng buộc Nặc Ong Đôn
phải đích thân dâng thư xin nhận tội. Ngày hôm sau,
Ong Đôn cho người mang thư đến cửa quân xin nhận tội
để chuyển về kinh thành cứu xét, được chấp nhận. Tuy
nhiên, vẫn không nhận được thư chính thức của Chất Tri.
Rồi quân Xiêm tự ý triệt đồn lui quân. Lệnh cho Nguyễn
Tri Phương lui quân về thành Trấn Tây, Ngô Văn Giai
về An Giang, Tôn Thất Bạch về Gia Định.
Năm Bính Ngọ, Thiệu Trị năm thứ 6 (1846), tháng Giêng,
tướng Võ Văn Giai tha cho mẹ của Nặc Ong Đôn về Cao
Miên còn vợ và cháu của đương sự, đợi cho đến sau khi
Chất Tri về nước Xiêm rồi sẽ tha về với Ong Đôn. Tháng
11 âl (1846), tướng Chất Tri lần lữa lấy cớ, ra kỳ hạn
một tháng để chờ thư của vua Xiêm, chưa chịu chịu rút
quân Xiêm ra khỏi thành U Đông. Sau Chất Tri đó lại
yêu cầu xin cho Nặc Ông Đôn đến đầu thú trước và thư
của vua Xiêm sẽ nộp sau. Tháng 12 âl (1846), Chân Lập
Nặc Ong Đôn sai bầy tôi là Ốc Nha Lịch, Y Giá Non, Ốc
Nha Bô, Na Đốc Côi, Ốc Nha Thôn, Na Tiếp Bà Đê Đột đem
bài biểu và lễ vật tới Trấn Tây để gởi về kinh đô xin
thần phục, được chấp nhận.
Tháng 2 âl năm Đinh Mùi (trong khoảng tháng 3dl và
tháng 4 dl năm 1847), sứ Cao Miên làm lễ triều cống.
Truyền chỉ cho bộ Lễ điều tra hỏi han để xem người Cao
Miên đã thực lòng thần phục triều đình Đại Nam hay chưa.
Hỏi đến đâu, sứ Cao Miên nói đến đó, không ngần ngại
chút nào, xét thấy lời lẽ của họ chân thành, cho nên
không còn nghi ngờ người Cao Miên nữa. Phong cho Nặc
Ong Đôn làm Cao Miên quốc vương, Mỹ Lâm quận chúa Ngọc
Vân làm Cao Miên quận chúa. Sai bố chính tỉnh Gia Định
là Lê Khắc Nhượng cùng với Nguyễn Tiến Hội và Hoàng
Thu làm khâm sứ sang thành Oudong làm lễ tuyên phong
cho Ong Đôn và Ngọc Vân. Thưởng công cho các quan đại
thần ở Trấn Tây.
Tháng 12 â.l năm Tân Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 14 (tháng
1 d.l/1861), để trả thù về cái chết của Barbet, Ariès
mở một cuộc hành quân lớn tấn công vào các phòng tuyến
của chiến lũy Chí Hòa nhưng bị quan binh triều đình
chống trả mãnh liệt, hơn 130 quân Pháp bị chết tại trận.
Sau trận đánh nầy, phó đô đốc hải quân Charner và thiếu
tướng Vassoigne được chính quyền Pháp phái sang, mang
theo 3,000 quân tăng viện và một hạm đội tàu chiến hùng
hậu.
Vua Cao Miên (Chân Lập) Nặc Ong Đôn (sử cũ viết là
man tù Xá Ong Giun) chết năm 1860 tức năm Canh Thân,
tháng 11 â.l/ niên hiệu Tự Đức thứ 13 (ĐNTLCB; quyển
XXIII đã dẫn; trang 166), con trai trưởng là Norodom
kế vị.
Tân Dậu, Tự Đức thứ 14, tháng Giêng (7 tháng 2 d.l/1861),
soái hạm Impératrice-Eugénie của Charner thả neo trên
sông Sài Gòn (sông Tân Bình). Sau khi đánh chiếm đại
đồn Chí Hòa và truy kích quân triều đình chạy về Biên
Hòa Charner phái phó thuyền trưởng Lespès mang qua cáp
và một lá thư đề ngày 24/ 3 d.l/ 1861 sang chiêu dụ
vua Cao Miên Norodom đệ I. Norodom liền cử một sứ đoàn
80 người mang lễ vật sang gặp Charner để xin giao hảo
với người Pháp. Việc nầy được A. Schreiner viết lại
như sau:
En fin, au roi du Cambodge, l'amiral fit parvenir des
présents et une lettre (24 mars 1861). Le lieutenant
de vaisseau Lespès, qui avait pris une part des plus
actives à la campagne, fu chargé de la mission; il se
rendit à Kampot avec l'aviso le Norzagaray qu'il commandait.
Voici la teneur du pli:
<<Les derniers événements de la Cochinchine sont
parvenus à la connaissance de Votre Majesté. Ell sait
que les troupes franco-espagnoles ont chassé les Annamites
des lignes de Chí-Hòa, que Saigon est dégagé et qua
l'armée ennemie vaincue s'est dispersée dans toutes
les directions. Les populations des environs, à de grandes
distances, sont venues faire leur soumission et accepter
la protection qui leur était offerte.
L'intention de la France est de conserver sa conquête,
de fonder dans la Basse-Cochinchine une colonie et d'y
apporter tous les bienfaits de la civilisation européenne.
Le Cambodge a toujors eu avec la France des relations
d'amitié. J'espère que nos rapports, en devenant plus
fréquent, deviendront aussi plus intimes.
Comme commandant des forces de terre et de mer en Cochichine,
et comme représentant de la France, je viens assurer
Votre Majesté de nos meilleures intentions à l'égard
du royaume du Cambodge et répondre aux avances de paix
et d'amitié que le Roi, votre père, Sire, a souvent
faites au représentant du noble Empereur des Français
à Saigon.
J'ai l'honneur d'informer aussi Votre Majesté que je
compte, dans un temps peu éloigné, porter nos forces
sur Mỷ Tho et m'emparer de cette place, dernière défense
des Annamites vers le Cambodge.
Le commandant de l'aviso de sa Majesté Impériale, le
Norzagaray, porra entrer en communication avec Votre
Majesté, si tel ait son désir.
J'offre à Votre Majesté . . . .>>
Cette démarche auprès du souverain cambodgien eut un
sucès complet. Le Roi Norodom répondit par des présents
et l'envoi d'une ambassade de quatre-vingts personnes
(nous en parlerons plus loin). (A.Schreiner; đã dẫn;
trang 183)
Tạm dịch: Sau cùng, đối với vua Cao
Miên, viên đề đốc đã gởi qua cáp và một lá thư (đề ngày
24 tháng 3 năm 1062). Phó hạm trưởng Lespès, người đã
dự phần hết sức tích cực vào chiến trận, được chỉ định
nhiệm vụ mang quà và thư; ông ta tới Kampot với chiến
hạm Norzagaray do ông chỉ huy. Và sau đây là nội dung
lá thư:
Chương
23
Ý định của nước Pháp là duy trì đất đai chiếm được của
mình, thiết lập tại vùng Nam Kỳ một chế độ thuộc địa
và mang tới nơi đó những lợi ích văn minh âu châu.
Nước Cao Miên luôn luôn có một mối liên hệ thân hữu
với nước Pháp từ trước đến nay. Chúng tôi ước mong rằng
những mối liên hệ của hai nước, càng lúc càng trở nên
thường xuyên, sẽ trở thành thân thiện hơn.
Nhân danh là tư lệnh hải, lục quân ở Nam Kỳ và là người
đại diện cho nước Pháp, chúng tôi đến để khẳng định
với hoàng thượng về những ý định tốt đẹp nhất của chúng
tôi với vương quốc Cao Miên mà cũng là để đáp lại mối
hòa bình thân hữu đã có từ trước mà tiên vương thân
phụ của ngài đã thực hiện qua sự đại diện các vị sứ
thần của quý quốc ở Sài Gòn gởi đến hoàng đế nước Pháp
của chúng tôi.
Chúng tôi hân hạnh thông báo đến hoàng thượng là không
bao lâu nữa, đoàn quân lực của chúng tôi sẽ tiến chiếm
Mỹ Tho là cứ điểm cuối cùng của người An Nam tiến sang
Cao Miên.
Vị thuyền trưởng tàu chiến hoàng gia, chiến hạm Norzagaray,
có thể đến diện kiến hoàng thượng nếu cần (sic!) (nếu
ông ta muốn như thế).
Khải bẩm hoàng thượng . . .>>
Đường hướng tiến gần với vương triều Cao Miên đã gặt
hái được kết quả toàn diện. Vua Norodom đã đáp ứng lại
bằng cách gởi qua biếu tặng và sai một đoàn sứ gồm 80
người.
*
Vào tháng 4 d.l năm 1861, em trai thứ 3 của Norodom
là Si-Vattha gây loạn cướp ngôi khiến Norodom phải chạy
trốn sang nước Xiêm La (Thái Lan).
Người dân Cao Miên vào lúc nầy, thừa dịp quan binh của
triều đình nước Đại Nam đang khốn đốn bận rộn đối phó
với đoàn quân xâm lược Âu Châu, đã nổi dậy đánh phá
các vùng biên giới giữa 2 nước (Tây Ninh, Thủ Dầu Một,
Dầu Tiếng. . .). Tháng 5 â.l (1860), người Cao Miên
chiếm đồn Chu Ức ở Trà Bông thuộc quyền cai quản của
tỉnh Gia Định. Phó lãnh binh Nguyễn Hợp đưa quân bình
định nhưng bị giết chết khi xung trận. (xem Nguyễn Công
Tánh; VSTKCGKL. V; trang 1385).
Như vậy, có thể suy định rằng vào lúc đoàn quân xâm
lược Âu Châu chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Gia Định), Tây Ninh,
Thủ Dầu Một, thì người Xiêm La đã tiến chiếm một vùng
đất nào đó của Chân Lập (tỉnh Kampot) rồi đưa Norodom
về để tiếp tục dẹp nội loạn lấy lại ngôi vua cho Norodom.
Trước đây cha của Norodom là Nặc Ong Đôn chỉ làm vua
bù nhìn một nửa nước Chân Lập dưới quyền đô hộ của quan
cai trị Gia Định. Nay Gia Định, Tây Ninh đã mất vào
tay người Pháp thì người Cao Miên rất vui mừng liên
hợp với Pháp để họ thoát khỏi ách đô hộ của Đại Nam
và chính vì vậy mà ĐNTL viết rằng <> (ĐNTLCB;
quyển XXIII đã dẫn; trang 184)
Sau khi Nặc Ong Đôn chết thì Tự Đức muốn đem quân đánh
phạt ( tháng 11 â. l năm Canh Thân, niên hiệu Tự Đức
thứ 13/1860) vì kẻ thừa kế của Nặc Ong Đôn là Norodom
đệ I không báo tang. Việc nầy được ĐNTLCB ghi lại như
sau:
<
Tuy nhiên việc chinh phạt Cao Miên chưa kịp thực hiện
thì người Pháp đã gây hấn ở Đà Nẵng rồi đánh chiếm Gia
Định khiến cho triều đình Đại Nam phải bận rộn lo đối
phó không còn khả năng đi chinh phạt Cao Miên nữa.
Sau khi thay thế Charner, Bonard cũng có sang gặp Norodom
và được Norodom tiếp đón nồng hậu vì nghe theo lời cố
vấn của giáo sĩ giám mục Miche (vào khoảng tháng 9 d.l
năm 1862/ theo A. Schreiner đã dẫn; trang 248).
Nghe theo lời cố vấn của Bonard và theo chỉ thị của
hầu tước Chasseloup Laubat trong chính phủ Pháp, đề
đốc La Grandière lúc vừa mới tới Nam Kỳ đã nghĩ ngay
tới việc tìm dịp tạo mối thiện cảm với vua Cao Miên.
Nhân một dịp vua Cao Miên bị lây một chứng bệnh truyền
nhiễm đang lan tràn trong giáo phận của giáo sĩ giám
mục Miche, La Grandière liền phái y sỹ Hennecart tới
Oudong. Y sỹ nầy có thể nói và hiểu tiếng Miên từ khi
ông ta công tác ở tỉnh Tây Ninh. Vua Cao Miên được chữa
khỏi bệnh rất nhanh tỏ rõ thiện cảm lớn lao với viên
y sỹ và luôn cả với nước Pháp.
Ít lâu sau, La Grandière liền cử phó hạm trưởng Doudart
de Lagrée đi theo pháo thuyền Gia Định với 28 binh sĩ
sang Cao Miên để thi hành nhiệm chức đại diện cho người
Pháp ở bên đó. De Lagrée đến Cao Miên vào đầu năm 1863
và mặc dù bị người Xiêm ở đó cản trở gây hiềm khích
chia rẽ nhưng De Lagrée vẫn chiếm được lòng tin của
quốc vương Norodom. Từ ngày 18 tháng 6 d.l năm 1863,
De Lagrée đã gởi báo cáo về cho La Grandière rằng nhà
vua (Cao Miên) đang ở tmột vị thế rất thuận lợi nhưng
không thể để vị vua nầy bị chi phối bởi một ảnh hưởng
nào khác; một khi ông vua nầy đã ban phát một điều gì
thì cần phải nhận ngay và không nên bàn bạc gì tới điều
đó nữa.
Sau khi đoàn sứ Phan Thanh Giản khởi hành sang Pháp,
la Grandière liền đến Oudong vào ngày 9 tháng 8 d.l
năm 1863 và được Norodom tiếp đón hết sức long trọng.
Giáo sĩ giám mục Miche đóng vai trò thông ngôn và đi
đến kết quả là một hiệp định được ký kết vào ngày 11
tháng 8 d.l năm 1863 đặt nước Cao Miên (Cambodge) dưới
sự đô hộ của Pháp và một địa điểm hải quan trong lãnh
vục tỉnh Pnom-Penh được giao nhượng cho người Pháp để
làm bến nhà kho và đồn trú quân sự.
Sau khi ký kết hiệp định bảo hộ Cambodge xong, la Grandière
yên tâm trở về Sài Gòn nhưng Norodom thì lại gặp nhiều
rắc rối do chính quyền bảo hộ cũ của người Xiêm (Thái
Lan) do Phnea-Rat cai trị ở Oudong gây ra.
Mặt khác, triều đình nước Xiêm cũng tìm cách ngăn chận
việc hoàng đế Pháp Napoléon III phê chuẩn định ước bảo
hộ Cambodge, hứa sẽ giao hoàn ấn tín của vương triều
nước Cambodge và yểm trợ cho Norodom làm lễ đăng quang
lên ngôi vua ở Oudong. De Lagrée báo cáo tự sự về Sài
Gòn. La Grandière liền phái thêm một pháo hạm sang Cambodge
để cảnh cáo sự can dự của người Xiêm vào nội tình của
Cambodge. Tuy nhiên, Phnea-Rat vẫn tiếp tục dùng mọi
thủ đoạn để cho Norodom mất lòng tin vào người Pháp.
Nhân chuyện các thủy binh Pháp sai rượu xong vào cung
đình chọc ghẹo các công chúa khiến cho Norodom nổi giận,
Phnea-Rat liền lợi dụng thời cơ nầy để tạo chia rẽ giữa
Norodom và người Pháp và Phnea-Rat đã khuyến dụ được
Norodom ký kết một hiệp ước vào ngày 1 tháng 12 d.l
năm 1863 chấp nhận sự bảo hộ của người Xiêm.
Hiệp ước bảo hộ nầy được phê chuẩn trao đổi vào ngày
22 tháng 1 d.l năm 1864 nhưng lại không có lễ đăng quang
huy hoàng cho Norodom ở Oudong mà cũng không có ấn tín
như Phnea-Rat đã hứa khiến cho Norodom thất vọng rất
nhiều. Tuy nhiên, theo chỉ thị của triều đình vua Xiêm,
Phnea-Rat đề nghị rằng Norodom sẽ được đăng quang trọng
thể nếu Norodom chịu sang thủ đô Bangkok của nước Xiêm.
Norodom chấp thuận. Doudart de Lagrée đã tìm đủ cách
để khuyến cáo Norodom đừng đi, ngay cả đưa ra những
lời hăm dọa đánh chiếm các tỉnh thành của Cambodge,
nhưng vô hiệu quả. Ngày 3 tháng 3 d.l năm 1864, Norodom
được Phnea-Rat và một toán nhỏ quân Xiêm hộ tống lên
đường đi sang nước Xiêm. Chỉ vài giờ sau, de Lagrée
ra lệnh cho quân Pháp tiến chiếm hoàng cung và các cơ
sở hành chánh công cộng. Hai ngày tiếp theo, 2 tàu chiến
và 100 thủy binh của Pháp được phái đến để tăng viện
cho de Lagrée. Khi đi xa khỏi Oudong khoản 10 dặm, Norodom
phải dừng lại và khiếp sợ khi biết được tin kinh đô
Oudong đã bị người Pháp chiếm giữ. Norodom bèn quyết
định quay trở lại Oudong mặc dù Phnea-Rat ngăn cản và
phản đối quyết liệt.
Tháng 8 d.l năm 1864 hiệp định bảo hộ đã được hoàng
đế Pháp Napoléon III phê chuẩn. Đại tá Desmoulins thừa
lệnh mang lên Oudong và nghi lễ trao đổi văn kiện chuẩn
phê được tổ chức tại Oudong từ ngày 12 đến ngày 17 tháng
4 d.l năm 1864. Người Pháp liền cử đại tá Aubaret sang
thủ đô Bangkok gặp vua Xiêm Mang-Kut để bàn định về
việc tổ chức lễ đăng quang chính thức cho Norodom và
vấn đề quân Xiêm rút ra khỏi hai tỉnh Angkor và Battambang.
Vua Xiêm phải nhượng bộ.
Ngày 3 tháng 6 d.l năm 1864, Norodom làm lễ đăng quang.
Ngày 16 tháng 6 d.l năm 1864, Phnea-Rat cùng quân Xiêm
rút hết ra khỏi lãnh thổ Cambodge.
Ngày 25 tháng 10 d.l 1864, vua Norodom với một số đông
tùy tùng xuống Sài Gòn để cống lễ chính quyền Pháp,
được người Pháp tiếp đón nồng hậu. Ngày 27 tháng 10
d.l năm 1864, vua Norodom trở về Oudong. (A.Schreiner;
đã dẫn; trang 255-257).
Chương
24
Về chuyến công du của
đoàn sứ
Phan Thanh Giản
1. Những hoạt động của chính quyền thuộc địa La Grandière
trong khi phái đoàn sứ Đại Nam đang ở Paris:
Sau khi đoàn sứ Phan Thanh Giản lên đường sang Pháp,
đề đốc La Grandière, không đếm xỉa gì đến tin đồn là
đạo quân viễn chinh của Pháp sẽ rút khỏi các vùng đã
chiếm được ở Nam Kỳ, cứ vẫn tiếp tục chương trình tổ
chức và củng cố guồng máy thuộc địa non trẻ của ông
ta: ra lệnh truy lùng đầu lĩnh kháng chiến Quản Định
được hoàng đế Tự Đức yểm trợ và cổ xúy, ứng trước, cung
cấp tài chánh và những sự yểm trợ cần thiết cho các
cư dân trong các vùng do quân xâm lược Pháp kiểm soát,
thực hiện nhiều công trình xây dựng cơ sở quan trọng
ở vùng Sài Gòn Mới và Sài Gòn Cũ (tức Chợ Lớn này nay),
kích thích sáng kiến trong giới tư nhân.
Ngày 28 tháng 11 dl năm 1864, tất cả việc làm của La
Grandière đã được chính phủ Pháp chuẩn phê ngầm bằng
cách phong cho ông ta chức vụ Thống đốc Nam Kỳ Hạ (Basse
Cochinchine) để thay thế đô đốc Bonard.
Trong khi các viên chức chính quyền của triều đình
Pháp ở Paris tiếp tục bàn cãi về vấn đề tái nghị hoà
ước Nhâm Tuất thì vào tháng 12 dl 1864 đoàn sứ Đại Nam
lên đường sang Tây Ban Nha trên tàu Terceira của Tây
Ban Nha. Trong khi còn lênh đênh trên vùng biển Địa
Trung Hải thì có cơn bảo biển lớn nhận chìm một tàu
khác; sau 15 ngày chưa tới bến, thì có tin đồn là tàu
chở đoàn sứ đi Tây Ban Nha cũng bị nhận chìm trong cơn
bảo biển đó và tin đồn nầy cũng được loan truyền ở Sài
Gòn nhưng chỉ được tiếp nhận bằng một thái độ thờ ơ
vì cho rằng đó chỉ là một thủ đoạn của triều đình Đại
Nam nhằm mục đích kéo dài thêm thời gian hiệu lực chấp
hành hoà ước Nhâm Tuất đã được hai bên phê chuẩn. Thực
tế thì tàu Terceira cũng bị cơn bảo làm hư hại nhưng
may mắn không bị nhận chìm giữa biển và đã tới được
hải cảng Naples. Gần một tháng sau tin tức về tàu chở
đoàn sứ Phan Thanh Giản đã đến thủ đô Madrid/ Tây Ban
Nha mới được đưa tới Sài Gòn.
Dự thảo một hòa ước hiệu chỉnh với Đại Nam cùng với
hoà ước Pháp-Cao Miên đã được chính phủ Pháp giao cho
đại tá Aubaret tân lãnh sự của chính phủ Pháp ở Bangkok
(Thái Lan) và ở Huế. Aubaret được bộ ngoại giao Pháp
ủy nhiệm toàn quyền thương thảo với triều đình Huế về
những yêu cầu do đoàn sứ Phan Thanh Giản nêu ra. Aubaret
rời nước Pháp lên đương nhận chức vụ lãnh sự vào tháng
1 dl năm 1864 và dự trù là sẽ đến Sài Gòn vào khoảng
tháng 2 dl năm 1864 nhưng vì tàu bị trục trặc cho nên
ông ta phải sang Thái Lan trước để trao ủy nhiệm thơ
của hoàng đế Pháp cho vua Thái Lan đồng thời cũng gởi
sang Sài Gòn hiệp ước bảo hộ Cao Miên ký kết ngày 11
tháng 8 dl năm 1863 đã được Napoléon III phê chuẩn.
Nhóm chính quyền thuộc địa của La Grandière ở Sài Gòn
bất mãn về việc chính phủ Pháp chỉ định Aubaret vào
nhiệm vụ thương thảo với triều đình Huế để sửa đổi hoà
ước Nhâm Tuất (1862). Tuy nhiên, lợi dụng thời gian
Aubaret chưa đến Sài Gòn, La Grandière đã thực hiện
những cơ sở cần thiết cho bước đầu thực hiện chính sách
thuộc địa của người Pháp trên đất nước Đại Nam.
Trong khi đó thì phái đoàn sứ Phan Thanh Giản từ Tây
Ban Nha đáp tàu Lepanto, đến cảng Alexandrie (Ai Cập)
Trung Đông vào ngày 23 tháng 1 dl năm 1864, một tuần
lễ sau đó vào kênh đào Suez ngày 30 tháng 1 dl năm 1864,
đáp tàu Japon để về Sài Gòn (tàu Japon đã đợi phái đoàn
ở kinh Suez từ hai tháng rưởi trước đó tức là tàu nầy
đã ở bến cảng kênh đào Suez từ 18 tháng 11 dl năm 1863:
tài liệu đăng trên tập san BAHV 1-3/1926 trang 75 viết
18 tháng 11dl năm 1864 là sai).
Phái đoàn về đến Sài Gòn ngày 18 tháng 3 dl năm 1864.
Đi theo phái đoàn về Sài Gòn còn có phó hạm trưởng Boresse
của Pháp được cử làm thanh tra sự vụ người bản xứ. Tất
cả đều được thống đốc La Grandière và các người Pháp
ở Sài Gòn tiếp đón trọng thể và dù có bất mãn lo âu
nhưng họ đã có thái độ kính trọng và khâm phục một cách
đặc biệt đối với ông Phan Thanh Giản vì cung cách dấn
thân phục vụ của ông cho đất nước Đại Nam.
Tờ báo Le Courier de Saigon (số ra ngày 22 tháng 3
dl năm 1864) đã viết nhiều đề mục ca tụng phái đoàn
sứ Đại Nam và mô tả lại những buổi tiệc khoản đãi, những
cuộc du ngoạn thăm viếng của phái đoàn quanh vùng Sài
Gòn-Chợ Lớn đang đổi mới. Tờ báo có đoạn viết:
«Le lendemain (20 tháng 3 dl năm 1864) , ils sont allés
à Cholon : ils ont visité les ponts, les travaux considérables
entrepris pour la rectification des quais et des rues
de ce vaste quartier.
«Ils étaient tous trois à pied, accompagnés de deux
officiers français ; ils n’avaient pas le moindre parasol
(comme insigne de leur dignité), et quand ils se sont
trouvés au soleil, ils ont daigné s’abriter sous un
modeste parapluie ! Une foule nombreuse s’était assemblée
autour d’eux et n’a point paru scandalisée de cette
dérogation à l’ancienne étiquette . . . » (BAVH 1-3/
1926; trang 76).
(tạm dịch: Ngày hôm sau, phái đoàn vào Chợ Lớn: họ
đi xem các cầu cống, các công trình quy mô chỉnh trang
các bến cảng và các đường phố của khu vực rộng lớn nầy.
Ba vị đại sứ đi bộ với hai quan chức người Pháp hộ tống,
họ không có lọng che (lọng che là một hình thức biểu
hiệu uy quyền của họ) và khi đi ngoài trời họ không
ngần ngại trú nắng dưới những cái dù che bình thường
đơn sơ. Một đám đông dân chúng bao quanh phái đoàn nhưng
không có ai tỏ dấu hiệu la chộ vì hình ảnh giảm cấp
quyền uy nầy.)
Ngày 24 tháng 3 dl năm 1864, đoàn sứ Phan Thanh Giản
đáp tàu Écho trở về và đến Huế vào ngày 28 tháng 3 dl
năm 1864.
2. Hoạt động của lãnh sự Aubaret
Aubaret đến Sài Gòn vào ngày 21 tháng 5 dl năm 1864
nhưng chỉ được tiếp đón một cách một cách lạnh nhạt
do đó ông ta đã vội vàng lên tàu D' Entrecasteaux để
đi và tới cảng Thuận An vào ngày 14 tháng 6 dl năm 1864,
được Phan Thanh Giản đón tiếp theo nghi lễ ngoại giao
và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến vào ngày 16 tháng
1 dl năm 1864 (theo BAVH đã dẫn. Tuy nhiên theo tác
giả A. Schreiner ghi trong sách Abrégé de l' Histoire
d' Annam thì Aubaret tới Huế ngày 16 tháng 1 dl năm
1864 và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến ngày 22 tháng
1 dl năm 1864). Aubaret được Tự Đức đối đãi rất trân
trọng và thân thiện. Sau đó là cuộc bàn thảo và thương
lượng giữa Aubaret và Phan Thanh Giản.
Hoà ước mới được Aubaret cùng với phái đoàn Phan Thanh
Giản ký kết và trao đổi vào ngày 15 tháng 7 dl 1864
nhưng hội đồng nội các chính phủ Pháp ở Paris đã không
chuẩn phê hòa ước nầy.
Ngày 29 tháng 1 dl năm 1865, thống đốc La Grandière
được chính phủ Pháp thông báo dứt khoát không chấp nhận
để triều đình Đại Nam chuộc lại 3 tỉnh đã mất. La Grandière
cho triều đình Huế biết quyết định không phê chuẩn của
chính phủ Pháp. Như thế có nghĩa là hoà ước Nhâm Tuất
(1862) vẫn còn tồn tại và có hiệu lực chấp hành.
*
Rõ ràng là Tự Đức và các triều thần thủ cựu, chậm tiến,
ù lì ở Huế đã làm đình trệ việc lấy lại các vùng lãnh
thổ ở Nam Kỳ đã bị quân xâm lược Pháp đánh chiếm. Trọng
tâm của Tự Đức là chuộc lại 3 tỉnh bằng bất cứ giá nào
không phải vì các vùng đó có những nguồn lợi phong túc
quý báu cho nhân dân miền Nam nhưng vì các vùng đó có
những mối ràng buộc tình cảm riêng tư với hoàng tộc
nhà Nguyễn (mẹ sinh của Tự Đức là người Gia Định). Khi
gởi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Paris, công tác chính
của Tự Đức giao cho phái đoàn là tìm mọi cách để chuộc
lại 3 tỉnh bị mất nhưng lại tiếc tiền bồi thường chiến
tranh, tiền từ kho bạc của nhà vua dù là tiền bạc tích
lũy được bằng cách thu tóm từ mồ hôi và công lao của
dân chúng. Thái độ thiếu hiểu biết được đàng đầu nắm
đàng cán, được voi đòi tiên của Tự Đức khiến cho người
Pháp bực bội chán nản. Aubaret có lúc đã đề nghị chấm
dứt cuộc thương thuyết.
Người Pháp đã hớn hở vui mừng cho rằng chính những
trò cãi bướng cố lì kéo dài thời gian của triều đình
Huế để chờ sự chán nản buông trôi của người Pháp đã
giúp cho chính sách thuộc địa non trẻ của họ tại Nam
kỳ tiếp tục tồn tại. Tác giả A.Delvaux trong bài viết
L'Ambassade de Phan Thanh Giản en 1863 d'après les documents
français đã không ngần ngại mà viết ra rằng tác giả
thành khẩn ca ngợi những nhà đại ái quốc đã biết cách
bảo tồn và phát triển nền đế quốc thuộc địa của nước
Pháp tại Viễn Đông: "En terminant ce modeste travail,
je ne puis m' empêcher de rendre mes humbles hommages
aux grands patriotes qui ont su maintenir et faire prospérer
notre jeune empire français d' Extrême-Orient."
(tạm dịch: "Để kết thúc công trình sưu khảo nầy,
tôi không thể nào tự đè nén để ca ngợi những nhà đại
ái quốc đã biết cách bảo tồn và phát triển nền đế quốc
son trẻ của nước Pháp chúng ta ở Viễn Đông" (BAVH
1-3/ 1926, trang 80).
Chương
25
THAM VỌNG BÀNH TRƯỚNG
CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA CỦA NGƯỜI PHÁP
Sau khi Pháp và Trung Quốc ký kết và phê chuẩn thỏa
ước hòa bình ngày 25 tháng 10 dl năm 1860 tại Bắc Kinh
(để bổ túc thêm cho hoà ước Thiên Tân ký kết giữa Pháp
và Trung Quốc vào ngày 27 tháng 6 dl năm 1858), Charner
liền đưa hết đoàn quân viễn chinh Pháp từ chiến trường
Trung Quốc trở qua Sài Gòn. Đoàn tàu chiến chuyển quân
của Charner đế Sài Gòn ngày 7 tháng 2 dl năm 1861. Ngày
24 và 25 tháng 2 dl tấn công đại đồn Kỳ Hòa, đẩy lui
quân triều đình ra khỏi vòng đai Sài Gòn, Gia Định,
chiếm luôn Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Quân triều đình rút
lui về cố thủ Biên Hòa. Kế tiếp quân của Charner tiến
chiếm Mỹ Tho.
Sau chiến thắng Mỹ Tho, Charner phải tạm ngưng việc
chiến tranh để lo tổ chức cai quản cả một vùng lãnh
thổ rộng lớn nằm giữa sông Mê-kong và sông Soài Rạp.
Ngay cả việc người Cao Miên sẵn sàng chịu đặt lãnh thổ
của họ dưới quyền kiểm soát của đoàn quân viễn chinh
Pháp mà Charner cũng phải làm ngơ. Với súng óng kỹ thuật
tốt và vượt trội so với vũ khí của quan binh triều đình
Đại Nam cùng với tinh thần đánh trận yếu kém chưa đánh
đã bỏ chạy của quân binh nhà Nguyễn thì đoàn quân chiến
thắng của Charner có thể tiếp tục cuộc hành quân xâm
lược để đánh chiếm luôn tỉnh Biên Hòa và 3 tỉnh miền
Tây không mấy khó khăn nhưng Charner phải ngừng lại.
Tại sao ? Bởi vì theo Charner chiếm đất thì không khó
lắm nhưng giữ đất đã chiếm được thì không phải dễ: "Nếu
tôi có thêm một ngàn quân thì tôi sẽ đánh chiếm luôn
ba tỉnh phía Tây nhưng liệu rằng tôi có đủ nhân sự để
giữ 3 tỉnh đó hay không? Tôi phải tự hạn chế để không
phải thối lui lấy một bước. Danh dự của người Pháp tùy
thuộc vào điều đó". Đây là lời của Charner viết
ra gởi cho Chasseloup-Laubat bộ trưởng Bộ Hải quân và
Thuộc Địa của chính phủ Pháp ở Paris ("Si j'avais
mille hommes de plus, écrivait-il au ministre de la
marine, je prendrai ces trois provinces; mais aurais
je assez le monde pour les garder? Je dois m' attacher
à ne pas faire un pas en arrière. Notre prestige en
dépend." (A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 195).
Như vậy, người Pháp dừng lại không phải vì họ nghĩ rằng
như thế đã đủ để bó buộc triều đình nước Đại Nam thay
đổi chính sách ngược đãi đạo gia tô, một tôn giáo xa
lạ do những người Âu Châu-trong đó người Pháp chiếm
một tỷ số lớn- nhập cảng vào nước Đại Nam. Vấn đề ngược
đãi đạo Gia tô chỉ là một cái cớ nhỏ khởi đầu để cho
người Pháp có thể thi hành chính sách xâm lăng thuộc
địa của họ. Tham vọng thuộc địa của người Pháp không
dừng lại nơi tỉnh Mỹ Tho.
Tham vọng của người Pháp không những được phát hiện
từ những thái độ hiếu thắng quân phiệt của những kẻ
cầm đầu Bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính phủ Pháp
ở Paris mà còn có thể phát hiện từ những cấp thừa hành
trong đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp mà điển hình
là Francis Garnier.
Fracis Garnier (1839-1873):
Trong một quyển sách có tựa đề Nos Premières Années
Au Tonkin tác giả Paulin Vial (1831-1907) có đoạn viết
về Francis Garnier như sau:
"A cette époque, Garnier avait 34 ans. Intelligent,
instruit, courageux, doué une ambition ardente, partout
où il avait servi il avait attiré l' attention de ses
chefs et de ses camarades. Il avait pris part à l' expédition
de Chine et de Cochinchine sous les ordres de l' amiral
Charner (1860-1861).
Revenu à Saigon à la fin d' Avril 1863, il fut admis,
sur sa demande, dans l' administration des affaires
indigène par décision de l' amiral de la Grandière.
Il servit à Cholon en qualité d'inspecteur stagière
sous les ordre de M.Gaudot, auquel il succéda en 1865.
En 1866, il avait été designé, sur sa demande, pour
faire partie de la Commission d' exploration du Mékong,
commandée par M. de la Grée, capitaine de frigate.
Parti de Saigon le 5 juin 1866, il y rentra en octobre
1868, ramenant le cercueil de son chef qui repose dans
le cimetière de Saigon.
Il était allé ensuite à Paris où il dirigea la redaction
de cet important voyage qui fait tant d' honneur à notre
pays.
En 1870 et 1871, Garnier prit une part glorieuse à
la défense de la capitale."
(Paulin Vial, Nos Premières Années au Tonkin, trang
50, nhà xuất bản Baratier-Molaret, France 1889)
Tạm dịch: "Vào thời đó, Garnier
34 tuổi, thông minh, có giáo dục, can trường, đầy tham
vọng, ở bất cứ nơi nào ông ấy phục vụ đều gây sự chú
ý của thượng cấp và bè bạn. Ông đã góp phần tham dự
vào công tác thám sát ở Trung Quốc và ở Nam Kỳ hạ theo
lệnh của đề đốc Charner (vào những năm 1860-1861).
Trở lại Sài Gòn vào tháng 4 năm 1863, ông làm đơn xin
và được la Grandière chấp nhận vào làm việc trong ngành
quản trị hành chánh bản xứ sự vụ. Ông được cho giữ chứ
thanh tra bản xứ ngạch tập sự ở Chợ Lớn (ngang với phó
thị trưởng) dưới quyền chánh thanh tra bản xứ Gaudot.
Ông thay thế Gaudot vào năm 1865. Năm 1866, Ông yêu
cầu và được chấp thuận cho tham dự vào đoàn thám hiểm
sông Mékong do đại úy hải quân de Lagrée làm trưởng
đoàn.
Đoàn thám hiểm rời Sài Gòn vào ngày 5 tháng 6 năm 1866
và quay trở về vào tháng 10 năm 1868 kéo theo quan tài
đựng xác người trưởng đoàn đễ chôn cất nơi nghĩa trang
thành phố Sài Gòn.
Tiếp theo đó, ông đi Paris và ở đó ông đã tự mình ghi
lại chuyên đi thám sát tạo niềm hãnh diện lớn lao cho
đất nước chúng ta.
Năm 1870 và 1871, Garnier chia xẻ một phần vinh quang
trong việc bảo vệ thủ đô."
*
Có thể nói rằng Francis Garnier là một thanh niên trẻ
tuổi đã đóng góp lớn lao cho sự hình thành chính sách
thuộc địa của nước Pháp ở Đông Dương. Không phải ngẫu
nhiên mà La Grandière đưa Francis Garnier vào đoàn công
tác thám hiểm sông Mê-kong. Garnier được trọng dụng
bởi vì trước đó F.Garnier đã thi hành thành công các
nhiệm vụ thám sát ở Trung Quốc và ở Nam Kỳ hạ. Cũng
có thể nói rằng F.Garnier là một người lính tiền sát
có nhiệm vụ hướng đạo, vẽ đường dẫn lối cho đoàn quân
viễn chinh xâm lược của Pháp đi chiếm đất dành thị trường
các nước Á Châu đặc biệt là nước Đại Nam.
Qua 2 bài tham luận, một bài viết vào tháng 4 năm 1864
dưới chủ đề La Cochinchine Française en 1864 và một
bài viết vào tháng 3 năm 1865 với chủ đề De la Colonisation
de la Cochinchine, Francis Garnier đã cho người ta thấy
tham vọng của Pháp muốn chiếm đoạt hết đất đai của nước
Đại Nam, trước hết là vùng Nam Kỳ hạ, kế đến là Bắc
kỳ và cuối cùng là Trung Kỳ.
Sau khi hoà ước Nhâm Tuất (1862) được hoàng đế Napoléon
III và hoàng đế Tự Đức phê chuẩn, triều đình Huế đã
đã áp dụng chính sách ngoại giao đi cửa sau để qua mặt
nhóm quân phiệt của Bộ Hải quân và Thuộc Địa chủ trương
chiếm đất bám trụ trên đất nước Đại Nam. Chính sách
ngoại giao qua mặt của triều đình Huế đã thành công:
chính phủ Pháp ở Paris và hoàng đế Napoléon III đã đồng
ý thay thế hòa ước Nhâm Tuất (1862) và cử ngay đặc sứ
Aubaret sang Sài Gòn để ra Huế bàn nghị một hòa ước
mới mà không cần tham khảo ý kiến của Bộ Hải Quân và
Thuộc Địa cùng với những tướng tá của đoàn quân viễn
chinh xâm lược Pháp hiện đang có mặt trên vùng đất Nam
Kỳ hạ. Đây là một cuộc đảo chánh ngầm trong nội bộ của
chính phủ Pháp khiến cho nhóm quân phiệt Pháp ở Sài
Gòn bất mãn giận dữ và họ đã phản đối ngầm bằng cách
vẫn tiếp tục thi hành những điều khoản đã thoả thuận
trong hòa ước Nhâm Tuất (1862) mà không cần xin chỉ
thị của chính phủ Pháp ở Paris và xem như không có mặt
của đặc sứ Aubaret.
Câu hỏi đặt ra là chuyện gì đã xảy ra trong khi Aubaret
đang dự cuộc thương thảo ở Huế?
Aubaret đến Sài Gòn vào ngày 21 tháng 5 dl năm 1864
nhưng chỉ được tiếp đón một cách lạnh nhạt do đó ông
ta đã vội vàng lên tàu D' Entrecasteaux để đi và tới
cảng Thuận An vào ngày 14 tháng 6 dl năm 1864, được
Phan Thanh Giản đón tiếp long trọng theo nghi lễ ngoại
giao và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến vào ngày 16 tháng
1 dl năm 1864 (theo BAVH đã dẫn). Tuy nhiên theo tác
giả A. Schreiner ghi trong sách Abrégé de l' Histoire
d' Annam thì Aubaret tới Huế ngày 16 tháng 1 dl năm
1864 và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến ngày 22 tháng
1 dl năm 1864). Aubaret được Tự Đức đối đãi rất trân
trọng và thân thiện. Sau đó là cuộc bàn thảo và thương
lượng giữa Aubaret và Phan Thanh Giản.
Hoà ước mới được Aubaret cùng với phái đoàn Phan Thanh
Giản ký kết và trao đổi vào ngày 15 tháng 7 dl 1864.
Sau khi phái đoàn sứ Phan Thanh Giản đã trở về nước
và trước khi Aubaret sang Sài Gòn thì bài tham luận
LA COCHINCHINE FRANÇAISE en 1864 của Francis Garnier
viết xong vào ngày 19 tháng 4 dl năm 1864 được nhà xuất
bản E. Dentu & Challamel Ainé cho phát hành ở Paris.
Khởi đầu bài tham luận, F.Garnier đã không ngại ngùng
chê trách chính phủ Pháp ở Paris, báo chí, và dân chúng
Pháp hiểu biết rất mù mờ về vùng đất Nam Kỳ hạ của nước
Đại Nam:
"L' étude de la Cochinchine française, au trible
point de vue des habitants, de ses ressources, de son
avenir, n' a jamais été faite d' une manière complète.
En France, on ne possède sur ce sujet que queques articles
de la presse périodique, plus anecdotiques que sérieux,
plus intéressants qu'instructifs; quelques ouvrages
faits à la hâte pour les besoins d'une passsagère actualité,
remplis d'assertions inexactes et de lacune regrettables;
quelques rapports ou quelques travaux faits à des points
de vue trop locaux, trop restreints, souvent trop intéressés.
Nulle part ne se trouvent des vues d'ensemble, un corps
de données concordantes, une appréciation générale et
élevée.
Les premières impressions sur la Cochinchine, un peu
enthousiastes, ont exagéré les facilités et les richesses
qu'elle présentait à notre colonisation. On a dépeint
sa population comme dénuée de tout patriotisme, on a
exalté outre mesure sa faculté d'assimiliation. Aussi,
une reaction très vive n'a-t-elle pas tardé à se produire
aux premiers obstacles rencontrés, et une sorte de découragement
a-t-il succédé aux premières espérances.
En essayant d'esquisser l'état actuel de la question,
je voudrait éviter l'un et l'autre de ces extrêmes,
et réduire à des proportion plus exactes les facilités
comme les obstacles que la Cochinchine offre à notre
colonisation. Exagérer les difficultés induit souvent
en des résolutions fâcheuses; les nier, c'est s'exposer
à les rendre insurmontables; vanter outre mesure certaines
facultés d'assimiliations, c'est, au lieu d'en profiter,
risquer de les rendre inutiles.
Si j'abdique d'avance toute prétention de combler la
lacune que j'ai signalée en commençant, j'espère au
moins, en indiquant où gît le problème, en provoquer
de plus heureuses solutions".
Tạm dịch: "Việc nghiên cứu về
vùng Nam Kỳ hạ của Pháp trên ba lãnh vực dân cư, tài
nguyên và triển vọng của vùng nầy từ trước tới nay chưa
bao giờ được thực hiện một cách đúng mức.
Ở Pháp quốc, một vài tiết mục được viết trên các tập
chí định kỳ có tính cách giai thoại lặt vặt không nghiêm
chỉnh, tạo thú vị hơn là truyền đạt kiến thức; một vài
tác phẩm viết lách vội vã vì nhu cầu thông tin thời
sự đầy dẫy những điều khẳng định không đúng và đáng
trách cứ; có vài bản phúc trình hay việc làm đưa ra
nhiều quan điểm có tính cách cục bộ, giới hạn, thường
chú trọng nhiều quá. Không tìm thấy đâu được những cái
nhìn tổng thể, một khối dữ kiện hòa hợp với nhau, một
sự đánh giá có tính cách tổng quát và có giá trị cao.
Những ấn tượng đầu tiên hơi nhiệt tình về miền Nam
Kỳ hạ đã phóng đại những tiện ích và sự giàu có ở miền
đó. Người ta đã mô tả dân tình ở đó như là đã lột bỏ
lòng yêu nước, người ta đã phóng đại một cách quá lố
phương cách đồng hóa của nó. Thêm nữa, một sự phản ứng
thật mạnh đã có ngay khi gặp những trở ngại đầu tiên
và một niềm thất vọng đã nối tiếp theo sau ngay những
niềm hy vọng ban đầu.
Trong khi phát họa tình trạng hiện thời của vấn đề,
tôi muốn tránh tình trạng đi từ cực đoan nầy đến cực
đoan kia, và giảm xuống đến mức tỷ lệ đúng hơn về những
lợi ích cũng như những trở ngại trong chính sách thuộc
địa của chúng ta trên đất Nam Kỳ hạ. Thổi phòng những
khó khăn thường dẫn đến những giải pháp phiền phức.
Phủ nhận các khó khăn đó tức là tự mình làm cho sự khó
khăn đó không thể vượt qua được; tán tụng quá đáng một
số phương cách đồng hóa tức là có nguy cơ biến các phương
cách đó trở thành vô dụng.
Nếu tôi tự mình từ bỏ trước tham vọng lấp đi điều thiếu
sót mà tôi đã đề cập từ lúc khởi đầu thì mong rằng việc
tôi khơi dậy ẩn lấp của vấn đề sẽ khích động tìm ra
những cách giải quyết tốt đẹp hơn".
*
Sau đây là phần tạm dịch toàn bài tham luận LA COCHINCHINE
FRANÇAISE en 1864 của Francis Garnier viết xong vào
ngày 19 tháng 4 dl năm 1864 được nhà xuất bản E. Dentu
& Challamel Ainé cho phát hành ở Paris.
Hình Mẫu
Trên đây là bản copy của trang khởi đầu bài tham luận
của F.Garnier.
Tôi không bỏ qua vấn đề chủng tộc. Trong
một vài bài viết gần đây, tôi đã trình bày một cách
ngụ ý rằng các dân cư của đế quốc An Nam là kết quả
của sự hợp chủng với tất cả các dân cư từ các vùng lãnh
thổ chung quanh. Sự quyết đoán nầy tự nó sẽ không có
nền tảng và muốn cho có ý nghĩa thì người ta sẽ phải
nói cho biết sự hợp chủng là gì? Ở vào thời nào? Theo
những tỷ lệ nào? Sự pha trộn đã tiến hành dưới nhiều
nguồn ảnh hưởng khác nhau như thế nào? Muốn biết được
những điều đó thì phải sinh sống lâu dài trên đất nước
nầy và nhất là cần có sự nghiên cứu về ngôn ngữ, lịch
sử và về các sắc tộc trên bán đảo Ấn-Hoa (thường được
gọi là bán đảo Đông Dương, gồm có Việt Nam, Cao Miên
và Lào), phải như vậy thì mới có thể hiểu được những
câu hỏi nêu ra bằng không thì chỉ là lý thuyết. Một
sự nghiên cứu lâu dài như thế cho đến nay chỉ mới có
tính cách sơ thảo.
Như vậy, tôi sẽ phải lướt qua các vấn đề vừa nêu ra
ở trên để khảo sát sự khác biệt nòng cốt về chủng tộc
giữa những cư dân đang sinh sống trên vùng Nam Kỳ hạ
đối với những kẻ chinh phục mới đến. Phải thừa nhận
rằng sự khác biệt nầy tạo thành một lý lẽ đối kháng,
một nguyên nhân gây ác cảm. Tuy nhiên những điều nầy
cần phải được công nhận vì giá trị chính đáng của nó.
Giống như những nước chịu ảnh hưởng của nền văn minh
Trung Quốc, ở Nam Kỳ hạ có hai hạng người khác biệt
nhau: một hạng là các sĩ phu (tức là những thành phần
trí thức) và một hạng là thành phần các thứ dân (còn
gọi là tục dân). Các uy quyền, cai trị đều do tầng lớp
sĩ phu nắm giữ. Bắt chước một cách dốt nát những cung
cách xử thế của các sĩ phu Trung Quốc, tầng lớp sĩ phu
An Nam cuồng nhiệt áp dụng sự hiểu biết của họ và bất
chấp bất cứ điều gì không phù hợp với văn minh kiến
thức của họ. Trên thực tế, chúng ta đến đây chiếm đoạt
quyền sở hữu lãnh thổ Nam Kỳ hạ từ tay của họ và cũng
chỉ có họ mới là những kẻ không bao giờ chịu tha thứ
cho chúng ta vì chúng ta đã chấm dứt sự tham lam bốc
lột của họ trên tài sản dân chúng, để tiêu hủy ảnh hưởng
và san bằng uy thế của họ, làm tiêu ma mất đi vai trò
(lãnh đạo) của họ. Vì chỉ biết chú trọng trên những
kiến thức ấu trĩ để hiểu biết về ưu thế của chúng ta
cho nên họ chỉ có thể cảm nhận được ưu thế đó theo ý
nghĩ của họ để rồi câm giận chúng ta nhiều hơn. Cuộc
chiến giữa họ với chúng ta là cuộc chiến bất tận mà
cũng chính là vì niềm cao ngạo của họ bị va chạm và
sự thù ghét vì lợi lộc đôi khi đặt ngang với lòng ái
quốc đã khiến cho họ can trường chấp nhận một cuộc chiến
tranh không ngơi nghỉ và vô vọng, bất chấp sự chết chóc
ô nhục, để được vẽ cho vài lời ca tụng anh hùng khiến
chúng ta tuy phải khâm phục nhưng lại hối tiếc giùm
cho.
May thay, niềm cao ngạo đó lại tan biến đi trong khối
dân chúng. Nhưng nếu chúng ta chỉ gặp một sự cam chịu
tiêu cực trong khối quần chúng nầy nhưng với hậu quả
của sự chịu đựng đau khổ triền miên đã trở thành thói
quen của họ, thì chúng ta lại phải va chạm với những
khó khăn nghiêm trọng về mặt tinh thần. Với một nền
văn minh lâu đời không di dịch, với những truyền thống
cội rễ và một tình trạng xã hội bám chặt vào phong tục
tập quán thì người ta không thể nào làm biến đổi trong
một sớm một chiều.
Cách cư xử đơn giản và dễ giải của chúng ta từ trước
đến giờ đã không thể nào xóa bỏ được sự tưởng tượng
của người An Nam về mức độ kính sợ phục tùng do những
quan chức cai trị thuở xưa đã tạo ra cho họ. Chúng ta
chưa hiểu biết một cách sâu sắc về phong tục tập quán
của họ, những phong tục đã tác động mạnh mẽ tinh thần
của họ, đó là những khó khăn đầu tiên mà bất kỳ cuộc
xâm lược nào cũng gặp phải trong lúc chuyển tiếp từ
giai đoạn quân sự qua giai đoạn hành chánh dân sự; ngờ
vực của họ đã được lèo lái và khai thác một cách khôn
khéo để đạt tới một mục đích là biến ngờ vực đó thành
một niềm tin tuyệt đối rằng chúng ta không có đủ khả
năng để cai trị họ.
Thêm nữa, về mặt vật chất, trong thâm tâm của những
người chủ trương khi đưa ra những dự án cải cách thì
những dự án nầy phải kích thích được sự ngưỡng mộ và
sự biết ơn của dân chúng thay vì khiến cho họ bị bỡ
ngỡ. Việc tạo dựng an sinh gây xúc động rất ít tại những
miền nhiệt đới dễ dãi. Vì không có khả năng suy luận
và đánh giá tầm quan trọng thực tế của những công trình
được thực hiện trên đất nước của họ, người An Nam lại
cho rằng các công trình đó chỉ nhằm để bốc lột, vơ vét,
thâu thuế nhiều hơn. Nếu nghĩ rằng có thể thuyết phục
được họ bằng cách đưa ra những con số để cho họ thấy
là chúng ta đã chôn vùi tiền bạc của chúng ta vô số
kể vào đất nước của họ, rằng còn lâu mới lấy được một
ít tiền tài trong nước của họ; chúng ta nghĩ như vậy
là mất thì giờ và nghịch lý.
Mặt khác, người An Nam có thể chỉ biết mập mờ về bản
chất của những xu hướng và phương cách áp dụng nền công
lý của chúng ta. Ý thức đạo đức của họ quá mờ mịt và
thấp kém khiến cho họ khó có thể nhận ra được cái nào
là cái nhìn cao hơn, lớn hơn phát hiện từ cung cách
hành động của chúng ta. Điều nầy chỉ thấy xảy ra ở những
dân tộc mà những ý niệm về công lý và luật pháp trong
mọi tình huống bị trộn lẫn vào các ý niệm về những hành
vi đã rồi và bạo lực, mà đó lại là những tình huống
cần sự che chở của luật pháp, một sự cầu viện khẩn thiết
của kẻ yếu kém bị áp bức nhưng lại chỉ có thể mua được
bằng tiền bạc. Đó là hậu quả của đầu óc mưu mẹo và lừa
đảo giúp cho các phán quan không còn phải e dè và làm
mất đi phẩm cách trang nghiêm của tòa án. Người ta sẽ
không ngạc nhiên khi thấy có những xúc động choáng váng
vì sự có mặt của những kẻ có đầu óc như thế trong hiện
tình cùng với những viên quan cai trị hành chánh người
Pháp được cắt cử để ban phát công lý.
Vã chăng, các ý niệm về công lý tự nó là những ý niệm
tuyệt đích ở bên ngoài thế giới của nhân loại và những
ý niệm nầy chỉ có một giá trị tương đối khi chúng được
áp đặt vào bất cứ nơi đâu hay vào bất cứ một thể chế
xã hội nào. Tùy theo phong tục tập quán khác nhau của
mỗi nơi, tùy theo tính cách đặc biệt của mỗi nền văn
minh mà các hình thức nghĩa vụ khác nhau được tạo thành.
Cũng vậy, để thấu hiểu bản chất một vài khó khăn và
mức độ của một số thái độ chán ghét ở Nam Kỳ hạ thì
người ta phải gột bỏ các ý kiến tiền định, những thành
kiến về giáo dục và nhất là không được cứu xét vấn đề
dưới nhản quan của một người Âu Châu. Có lẽ điều nầy
từ trước đến nay chưa có ai thử áp dụng. Nhược bằng
đã làm được như vậy thì người ta sẽ không bõ ngỡ về
một số hậu quả đương nhiên phải có xuất phát từ một
nền văn minh suy vi thoái hoá và nếu là một người quan
sát ít thiên vị thì sự phê phán của người nầy đã là
một sự phê phán công minh hơn.
Thiển nghĩ, đó là tất cả những nguyên cớ của những
sự ngờ vực đã bén rễ, của những thái độ lạnh nhạt thờ
ơ tự nẩy sinh từ dân chúng An Nam kể từ lúc chúng ta
chiếm đóng.
Chương
26
Đã như vậy thì liệu rằng những khó khăn đó có thể vượt
qua hay không? Phải chăng chúng ta không thể dự trù
được những khó khăn về mặt văn minh và chủng tộc mà
chúng ta phải đối diện vào lúc nầy? Có phải chỉ vì một
vài lúng túng về tổ chức hành chánh mà chúng ta phải
chịu thua, từ bỏ nhiệm vụ, bỏ rơi dân tình An Nam dưới
gọng ách thoái hóa của nhóm quan viên triều đình hay
sao? Mặc dù ở dưới sự chiếm đóng của chúng ta, trong
tình trạng suy thoái ấu trĩ nầy, phải chăng chúng ta
vẫn cứ phải chấp nhận để cho các hạng quan viên đó bất
tận tạo ra thái độ tiêu cực đối với mọi sự tiến bộ cũng
như làm trở ngại các sự phát triển vật chất? Và bởi
vì chúng ta không muốn đi xuống để hội nhập với họ thì
lẽ nào chúng ta lại tuyệt vọng trong việc kéo họ lên
ngang bằng với chúng ta? Người ta không thể trả lời
ngập ngừng được.
Có chính sách thuộc địa nào vấp phải những trở ngại
lớn lao hơn hay không? Người ta thấy rằng, ở đây không
có chủ nghĩa yêu nước hay chủ nghĩa tôn giáo cuồng tín
để lôi kéo khối quần chúng nổi dậy chống lại những kẻ
xâm lược một cách mù quáng. Quả thật có một bản năng
lo sợ thúc đẩy lấn lướt mọi sự suy luận nhưng rồi thì
những thực tế vật chất hợp lý hợp tình sẽ được thực
hiện trong thời hạn thật ngắn.
Mặc dù có một vài biện pháp đáng tiếc, những đồn đãi
giận dữ đã và đang góp phần vào sự nuôi dưỡng lòng ngờ
vực của dân chúng đối với chúng ta, người ta không thể
phủ nhận rằng người An Nam bắt đầu không còn muốn trở
lại một số những thành kiến của họ. Sự liêm khiết và
ý thức của chúng ta hay đúng ra là lòng yêu chuộng công
lý cùng với sự mềm dẻo của chúng ta, mặc dù đối chọi
gay gắt với tình trạng bán buôn và tính cách bạo tàn
trong chính sách cai trị của họ trước đây, nhưng cũng
đã tạo được ấn tượng đối với họ. Cảm tình của họ đối
với chúng ta chưa phải là sự cảm phục kính trọng , tuy
nhiên họ có ngạc nhiên mà sự ngạc nhiên thì tới trước
sự cảm phục kính trọng.
Vậy thì chúng ta hãy cứ phải chờ đợi những kết quả
nhất định sẽ có, những kết quả từ sự tiếp cận giữa người
và sự vật. Chúng ta hãy từ từ đưa vào những sự cải cách,
không nên quá vội vã để rồi chuốc lấy sự khó chịu từ
số dân chúng không có khả năng nhận biết những công
việc làm có tính cách phúc lợi; chúng ta không nên đối
đầu thẳng với những thành kiến; chúng ta hãy đối xử
khéo léo với những trường hợp nhạy cảm chính đáng. Khi
cố gắng lôi kéo một cách mềm dẻo khối dân chúng đã từng
phải chịu còng lưng bãi hoải dưới quyền lực chuyên chế
mà phẩm cách bị vùi dập, niềm tự hào bẩm sinh bị tan
biến cũng như khi chúng ta mang trở lại cho họ ý thức
về lương tri, thức tỉnh lòng ham muốn sáng tạo và ý
chí tự do của họ hay chỉ cần nói tóm gọn một câu rằng
khi dẫn đưa họ đến với thói quen tự họ suy nghĩ, tự
họ hành động thì không bao lâu người ta sẽ thấy rằng
thành kiến sẽ nhường chỗ cho sự nhận xét đánh giá sự
vật một cách tự do và vô tư.
Tổ chức xã thôn cùng với những xã trưởng và cai tổng
đủ tư cách để cai trị tạo thành nền móng của thể chế
xã hội người An Nam. Chúng ta nên duy trì nền móng nầy
bởi vì cho đến ngày nay nó luôn luôn là một sức mạnh,
cho nên mặc dù giặc giã chiến tranh, mặc dù có những
cố gắng mưu mô của những chính quyền An Nam từ các tỉnh
thành lân cận, thì cũng chỉ có một số rất ít người di
cư ra khỏi các vùng lãnh thổ do Pháp đang chiếm đóng.
Người ta có thể cho rằng sự đoàn kết gắn bó giữa những
thành phần trong thôn xã là quá đáng và muốn rằng bên
trong khối đơn vị kết hợp chung với nhau đó có thêm
được một chút phát triển ý hướng về nhân phẩm. Tuy nhiên,
rốt cuộc rồi thì vẫn có một năng lực hành động ở đó
cần phải được duy trì một cách thận trọng chi ly. Hãy
để cho sự bầu cử hoàn toàn tự do, phát triển thêm những
mối liên hệ giữa những xã trưởng với các giới chức chính
quyền Pháp, làm gia tăng thêm tầm mức ảnh hưởng của
họ, nới rộng vòng đay đóng góp của họ, biến đổi họ thành
những nhân tố đương nhiên trong những trường hợp khiếu
nại, xem họ là những kẻ bênh vực cho mọi thứ phúc lợi
ở địa phương và làm giảm bớt những điều phiền phức như
tôi vừa mới đề cập ở phần trên, nếu làm được như thế
chúng ta sẽ lấy đực lòng tin của dân chúng và chúng
ta sẽ liên kết họ vào guồng máy của chúng ta mà không
gặp sự chống đối. Khi mà nền móng cơ cấu nầy được duy
trì một cách cẩn trọng và được củng cố thêm, người An
Nam sẽ chấp nhận nhanh chóng khi nhìn thấy phía trên
có những chức quyền hành chánh âu châu vô vị lợi thay
thế vào chỗ của các hạng quan lại tham lam đầu cơ của
triều đình trong thời gian họ nắm giữ chức vụ và bởi
vì họ vốn là hạng hủ lậu chậm tiến gánh nặng của đất
nước cho nên những hạng quan lại nầy sẽ làm khô cạn
những nguồn tài nguyên phong phú của dân chúng.
Cùng một lúc với những mối ràng buộc từ trong lòng
đất nước, những nghĩa vụ và những mối liên hệ mà người
dân An Nam không còn có thể nghĩ rằng nếu cắt đứt vẫn
không có gì gọi là nguy hiểm, thì sự kiện nền thương
mại từ các nước âu châu đến đây mở và khai thông gắp
trăm lần tài sản sẵn có sẽ làm rơi rụng những thành
kiến còn xót lại trong dân chúng, những thành kiến mà
chỉ có những kết quả vật chất mới có thể thuyết phục
được họ. Những công trình đã được thực hiện, những phương
tiện liên lạc thông tin được thiết lập, những biện pháp
dùng để cải thiện vệ sinh công cộng, sẽ tạo cho họ có
được một cái nhìn về cá tính thật sự của họ và đối với
họ những điều thực hiện đó là đáng cảm phục và biết
ơn.
Tôi đã chứng tỏ cho thấy rằng công tác phát triển xã
hội phải được kèm theo cùng một lúc với sự phục hồi
đạo lý và do đó ảnh hưởng đạo giáo cũng sẽ rất hiệu
quả. Tôi lặp lại ở đây rằng lý luận không thể thâm nhập
vào đầu óc của người An Nam. Với họ, đạo gia tô không
phải là ánh sáng mà chỉ là tình cảm; tính cách siêu
nhiên, tầm vóc lớn rộng, cũng như các bổn phận của gia
tô giáo áp đặt ra không được họ tiếp nhận. Tôn giáo
nầy chỉ có thể nhập vào họ theo khía cạnh cảm kích,
lôi cuốn họ bằng những điều hứa hẹn và những niềm hy
vọng thần bí, quyến rũ họ bằng cách mang tới sự an ủi
cho những thành phần bị thua thiệt sống trong nền văn
minh châu Á, bằng ý niệm phước thiện trên bất cứ điều
gì mà tôn giáo nầy mang đến cho họ như là một liều thuốc
chữa trị bá chứng phát xuất từ những sự thống khổ của
họ. Người An Nam có một số tín ngưỡng ôn hòa và sầu
muộn, như đạo tôn trọng và kính thờ ông bà, tổ tiên
mà đạo gia tô đầy thi vị và cao trọng có thể nắm lấy
như là một khởi điểm để tiếp cận và chuyển tiếp một
cách dễ dàng nhằm lôi kéo họ về phía gia tô giáo và
đặt họ dưới ảnh hưởng thiện đức của tôn giáo nầy.
Tuy nhiên về mặt tôn giáo cũng như về mặt xã hội, những
vấn đề có tính cách nhạy cảm và tạo ngờ vực thì nhất
thiết không nên khơi dậy. Người ta phải nhớ rằng gia
tô giáo không có tổ quốc, không thuộc quyền sở hữu của
một quốc gia nào, dửng dưng không tuân phục đối với
bất kỳ vị vua nào dưới trần thế. Việc hành đạo của họ
phải được thực hiên ngoài mọi sự hậu thuẫn của bất kỳ
guồng máy nào, ngoài áp lực của chính quyền. Một tình
trạng cân bằng chặt chẽ phải được duy trì giữa các tín
đồ gia tô giáo và tín đồ phật giáo trong vùng lãnh thổ
của chúng ta. Tôn giáo chắc chắn sẽ đạt được uy thế
và sự tôn kính cũng như ảnh hưởng và hiệu quả của tôn
giáo trên công tác phục hồi đạo đức ở Nam Kỳ hạ chỉ
có thể xảy ra trong điều kiện vừa mới kể qua.
Khi trình bày cho thấy rằng dưới một guồng máy hành
chánh khôn ngoan và phụ mẫu, sự tiến bộ về tư tưởng
và hành động sẽ tự phát sinh giữa lòng quần chúng An
Nam, tôi không muốn vẽ ra một bức tranh tưởng tưởng:
tôi chỉ thử cố gắng mô tả những mầm móng có vẽ như đang
phát triển tại bất cứ nơi nào mà khối quần chúng đang
ở trong các điều kiện mà tôi đã nêu ra. Gần 3 năm trôi
qua kể từ khi chúng ta đã xâm chiếm dứt khoác những
vùng đất trên bờ sông Đồng Nai mà chỉ có được một năm
yên ổn và trong vòng một năm nầy cũng đủ để chúng ta
tu sử phần nào những thiệt hại vì chiến tranh gây ra
và củng cố sự thống trị của chúng ta! Hiện nay, chúng
ta thu thuế dễ dàng, các điều lệnh của chúng ta ban
hành được truyền rao một cách suông sẻ khắp nơi trong
vùng lãnh thổ chiếm đóng và được tuân hành nghiêm chỉnh.
Nơi hạ tầng cơ sở, các chức quyền tham nhũng bị trách
phạt, quyền làm chủ tài sản được công nhận, phong tục
tập quán được duy trì, tất cả các sự kiện đó làm tăng
thêm niềm tin về thiện chí của chúng ta và đánh tan
những điều loan truyền bịa đặt bởi nhóm người xúi giục
nổi loạn. Nhóm người nổi loạn nầy từ 18 tháng trước
đây ẩn nắp khắp nơi, rất được cảm tình âm thầm của tất
cả mọi người thì nay khó mà có được một nơi an toàn
đễ ẩn náo dung thân. Bây giờ nhóm nổi loạn lo sợ rằng
những đồ vật dâng hiến tự nguyện, những sự móc nối của
họ với dân chúng ngày trước là duyên cớ tạo ra những
sự trả trả thù báo oán. Điều nầy cũng được thấy rõ vì
có một số người của nhóm nổi loạn đã bị dân chúng bắt
nộp cho chúng ta từ những nơi ẩn trốn của họ.
Khốn khổ thay, tôi lại phải vội vã mà thêm rằng tình
trạng vừa kể không phải đều xảy ra khắp nơi. Ở các quận,
huyện xa trung tâm thuộc địa của chúng ta và những nơi
mà nhóm nổi dậy có thể tạm dùng làm căn cứ địa kiên
cố của họ thì những khó khăn mà tôi đã nêu lên từ lúc
khởi đầu nhất định phải có. Ở những nơi đó, các người
đầu lãnh của nhóm nổi loạn vẫn tiếp tục nắm giữ uy thế
sĩ phu và quan lại của họ và không có một chút nào lẫn
lộn vào những phường trộm cướp sát nhân tầm thường được.
Điều quan trọng là người ta biết ở nơi đó, một sự trấn
áp khe khắt vừa mới tiêu trừ ảnh hưởng của họ ra khỏi
dân chúng đang phải chịu đặt mình dưới 2 chế độ luật
pháp với 2 chính quyền và nhất định là họ phải nghiêng
hẳn về phía nầy hay phía kia. Người dân An Nam cần được
bảo đảm rằng họ sẽ không bị đầy lui trở về tình trạng
cũ, họ cần phải được thuyết phục bằng những chứng cớ
xác thật về sự ổn định cơ sở của chúng ta được thiết
lập chung lộn với họ; và tới lúc đó, khi họ chịu khuất
phục trước những thành tựu, cùng với bản chất thụ động
bẩm sinh của sắc tộc An Nam, họ sẽ liên kết với chúng
ta một cách ngay thẳng và bất cứ nguy cơ nổi dậy nào
rồi cũng sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, hiện giờ vụ lặp
đi lặp lại để xác nhận việc người Pháp sắp di tản ra
khỏi 3 tỉnh đang chiếm đóng, người ta tự để lộ ra cho
thấy thấy rằng dân chúng phải chịu sinh hoạt dưới quyền
của hai bên, một ở miền Đông một ở miền Tây, trong các
tỉnh của người An Nam cai trị bởi những quan chức của
triều đình, những tỉnh bị bao vây bởi nhóm nổi dậy khắp
cùng trên một vùng sông rạch chằng chịt mà mỗi lần gặp
họ là người dân sẽ bị nguy hiểm, và điều nầy có thể
giải thích một cách dễ dàng tại sao khi thấy dân chúng
đến với chúng ta mà mắt cứ phải ngó chừng về phía sau
và tại sao họ cam chịu bắt tay và chia xẻ tình cảm của
họ với cả hai bên cùng một lúc.
Tình trạng địa dư nầy trong ba tỉnh của chúng ta là
nguyên cớ tạo ra những tranh chấp tương lai với triều
đình Huế, nhưng nếu chúng ta cứ giữ nguyên tình trạng
đó thì sẽ gây tác động mạnh đối với người An Nam. Trong
số dân chúng An Nam có những kẻ khôn ngoan nói rằng:
"Nếu các ông muốn chúng tôi trở thành những người
Pháp thì các ông còn phải chiếm thêm các tỉnh Vĩnh Long,
Hà Tiên, An Giang, nếu các ông đóng cửa đương thông
thương giữa tỉnh Bà Rịa với thủ đô Huế, khai phóng việc
tiếp xúc với người ngoại quốc cũng như giải trừ những
khích động phản loạn, không còn phải sợ những sự đe
dọa huyền hoặc hiện giờ đang ám ảnh những người chịu
khuất phục, nếu các ông thực hiện được những điều đó
thì chúng tôi sẽ về phía các ông mà không còn có một
hậu ý nào.
Trên đây là một sự phân tích nhanh chóng về những trở
ngại mà chúng ta đang gặp phải ở vùng Nam Kỳ hạ và những
phương cách để vượt thoát những trở ngại đó. Theo tôi,
sự phân tích nầy chứng tỏ rằng nếu chúng ta muốn thì
đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ có thể đưa khối dân
chúng đã thực lòng liên kết với chúng ta vào dưới cùng
một màu cờ và cùng chung một nền văn minh của Pháp quốc.
Chúng ta không nên suy xét một cách thiếu kiên nhẫn,
một kiểu suy xét đốt giai đoạn, chưa gieo mà đã muốn
gặt hái. Hãy so sánh cuộc chinh phục Nam Kỳ hạ của chúng
ta với bất kỳ một cuộc chinh phục nào cùng một bản chất
do những quốc gia thực dân nổi tiếng đã thực hiện thì
chúng ta sẽ thấy được rằng ở đâu cũng vậy. Trong ba
năm đầu tiên, người ta sẽ bị hoang mang rắc rối, đối
đầu với những cuộc nổi dậy, hoàn toàn xáo trộn vô trật
tự và đổ nát nhất thời.
*
II
Sau khi trình bày để cho thấy rằng trên bình diện dân
số cuộc chinh phục dứt khoác và thuộc địa hóa vùng Nam
Kỳ hạ chỉ gặp phải những trở ngại không lớn lắm và trong
một thời gian ngắn sẽ đưa tới một tình trạng vật chất
thỏa đáng và lâu bền, điều cần yếu bây giờ là việc nghiên
cứu những hậu quả có thể phát sinh ra từ đó đối với
ảnh hưởng và nền thương mại của chúng ta ở Á Đông. Nói
một cách khác, để chứng minh tư cách chính đáng việc
chiếm đóng của chúng ta thì cần phải đạt được sự cân
bằng giữa những sự hy sinh với những kết quả mà sự chiếm
đóng đó hứa hẹn
Chương
27
Tôi sẽ không dừng lại để ca tụng vị thế lãnh thổ thuộc
địa của chúng ta và cảng Sài Gòn của thuộc địa nầy so
với các vùng biển chính Trung Quốc và lưu lượng thương
mại trên các vùng biển đó. Người ta đã nói hết điều
nầy và tôi thiết nghĩ không có ai lại có thể tranh luận
gì về tiện ích tuyệt vời đó. Ngày mà chúng ta xây dựng
những ụ sửa chữa tàu ở Sài Gòn - và thật bất hạnh thay
cho tới nay người ta chỉ biết mơ ước mà thôi- thì lúc
bấy giờ Sài Gòn sẽ trở thành địa điểm giao lưu được
ưu chọn của các loại thương thuyền trên tuyến đường
biển giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Nằm giữa Singapore và
Hồng Kong, chỉ cần 72 giờ đồng hồ để gởi thơ tín đến
thị trường ở hai nơi đó, bởi vì sớm muộn gì rồi thì
cũng sẽ vượt trội hơn cho nên tương lai thương mại lớn
lao của Sài Gòn là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa.
Ở vào một miền khí hậu rất tốt cho việc sinh sôi nẩy
nở các loại thực vật nhiệt đới, tân thuộc địa của chúng
ta có một mật độ dân cư đông đúc, cần cù và cật lực
sản xuất khi được hướng dẫn đúng đắn. Nhờ có một bản
chất đặc biệt, đất đai nầy biến Nam Kỳ hạ thuộc Pháp
trở thà kho gạo thóc vô tận cho các vùng quốc gia lân
cận xung quanh, một kho thực phẩm thiết yếu cho các
giống tộc Á Châu. Ngoài ra, nếu công việc sản xuất loại
ngũ cốc đó tự nó tạo cho đất nước được ưu đãi nầy một
giá trị lớn lao, còn có những nguồn tài nguyên quý giá
khác cần phải được lưu ý đưa lên ngang hàng mà một số
cần phải được khai thác quy mô chẳng hạn như thuốc lá,
bông vải, đường mía, lụa gấm, cây tràm (chàm), gỗ xây
cất, muối, cây dầu, cây nhuộm, nhiều loại cây gia vị
và cây hương liệu.
Chằng chịt rạch ngòi thiên nhiên tiện lợi cho việc
giao thông, trao đổi, xứ nầy phân chia thành từng vùng
khác biệt nhau thật rõ nét trên phương diện trồng trọt
canh tác. Các vùng đất khác biệt nầy ở khắp nơi tạo
cho người dân có được những năng khiếu tự nhiên, những
hiểu biết đặc biệt và nhất là sẽ giúp cải tiến sản phẩm
và làm gia tăng tài sản của họ. Ở đây người ta không
nên e sợi những bước mò mẫm làm mất thời giờ quí báu
và sự tiêu hao quá nhiều vốn liếng kể cả những chướng
ngại bất ngờ tương tựa như trường hợp xảy ra ở bên nước
Tích Lan (Ceylan) làm sụp đổ nguyên một kỷ nghệ cần
nhiều kiên nhẫn và siêng năng cật lực. Nếu trường hợp
giống như thế xảy ra thì những điều do người Âu Châu
thúc đẩy để làm nẩy sinh ra sự giàu có sung túc trong
3 tỉnh do chúng ta chiếm đóng mới đáng được gọi là không
kể xiết. Vì có nhiều thị trường tiêu thụ cho nên giá
cả sản phẩm thu gặt được nâng cao và đồng thời bảo đảm
cho người dân An Nam có được một mức lợi tức thu nhập
lớn lao mà không còn phải bị tước đoạt vì bổn phận dâng
góp bắt buộc cho các quan triều. Nó cũng bảo đảm cho
người dân có được một hệ thống giao thông tiện lợi,
những thị trường ngay tức khắc và dễ thực hiện khiến
cho mức độ sinh hoạt trong nước sẽ nhộn nhịp gắp bội.
Đồng thời việc du nhập vào các tiến trình canh tác tốt
hơn và nhanh hơn sẽ làm phong phú một cách lâu dài những
thành tựu phát sinh từ sự sinh hoạt nầy.
Nhưng mà đã đến lúc tôi cần phải tách rời những sự
trình bày khái quát để nói một cách cụ thể hơn về các
nguồn tài nguyên hiện nay của vùng miền Nam Kỳ hạ bằng
vào những con số. Bởi vì với nhiều nguồn tài nguyên
hiện nay đang ở trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, người
ta có thể dự đoán được tương lai của những nguồn tài
nguyên đó sẽ ra sao trong những lúc bình thường.
Diện tích canh tác lúa gạo trong 3 tỉnh do chúng ta
chiếm đóng là 105,000 héc-ta. Trung bình mỗi năm diện
tích của số ruộng canh tác nầy cung cấp 210,000 thùng
tôn-nô lúa gạo (1 tôn-nô = khoảng 253 gallon; 1 gallon
= 4.54 lít ở Anh quốc), trị giá bán ra tại địa phương
là 35 triệu đồng quan Pháp. Cứ tính rằng phải dùng một
số lượng to lớn để nuôi dân, nộp thuế và hạt giống thì
lãnh thổ thuộc địa của chúng ta vẫn có thể xuất cảng
ra nước ngoài khoảng 100,000 tôn-nô mỗi năm. Số lượng
nầy có chiều hướng gia tăng nhiều hơn nếu các đồng ruộng
bỏ hoang vì chiến tranh khoảng hơn 80,000 héc-ta được
khai thác trồng trọt trở lại, gia tăng thêm khả năng
sản xuất của một số giống lúa bằng cách cải thiện phương
pháp dẫn nước vào ruộng mà hiện giờ chỉ đạt được 6/15
năng xuất so với các đồng ruộng lúa bình thường. Nếu
dùng động cơ để gặt hái và xay lúa thì sẽ khiến cho
số lượng gạo thóc gia tăng theo một tỷ lệ đáng kể.
Chính quyền An Nam chỉ có một chính sách khuyến nông
duy nhất là phải tăng gia số lượng sản xuất lúa thóc
để đủ cung ứng cho các tỉnh ở miền Bắc và miền Trung
vì những nơi nầy không đủ khả năng sản xuất đủ dùng
cho riêng mình. Việc khai thác các tài nguyên thiên
nhiên khác thì lại không bao giờ vượt quá mức đủ dùng
cho từng địa phương. Lợi lộc không thể cám dỗ nhà nông
hay nhà công nghiệp khi mà nhà quan dấu đậy tay nầy
thò lấy tay kia. Ngoài ra còn có những nguồn lợi tức
tài nguyên màu mỡ phì nhiêu chưa được khai thác vì chế
độ cô lập hóa để tự phòng vệ giống như tất các chính
quyền ở vùng Viễn Đông. Điều nầy sẽ giúp cho thấy tại
sao những số liệu sắp được nêu ra tiếp theo sau đây
sẽ nhỏ hơn những số liệu đã được nêu ra ở phần trên.
Hiện tình là như vậy, nhưng vẫn đáng phải được chú trọng.
Thuốc lá được trồng ở Nam Kỳ trên một diện tích khoảng
4,000 héc- ta, thu hoạch gần 5,000 tôn- nô lá thuốc
với trị giá tại chỗ là 1,200,000 đồng quan Pháp. Cải
thiện việc canh tác sẽ làm mặt hàng thương mại nầy tăng
giá trị một cách đáng kể bởi vì trong số các loại thuốc
lá sản xuất trong vùng biển Trung Hoa thì thuốc lá ở
đây chỉ đứng sau thuốc lá của Phi Luật Tân. Như thế,
dù vẫn còn thô sơ chưa được hoàn hảo nhưng nó lại được
dùng để sản xuất các loại thuốc lá của Pháp mà người
Âu Châu rất ưa chuộng. Dù thế nào đi chăng nữa thì nơi
đó vẫn là một nguồn tiếp tế mà không ai có thể phủ nhận
phẩm chất và giá trị của nó đối với nền công nghiệp
đế quốc của chúng ta.
Diện tích trồng bông vải trong 3 tỉnh của chúng ta
chỉ có 2,500 héc-ta mà lại trồng tỉa một cách phân tán
cho nên rất khó định giá chính xác. Nếu lấy chỉ tiêu
là 3,500 tôn-nô sản lượng với trị giá thu gặt là 3 triệu
đồng quan thì con số nầy còn quá thắp so với thực tế.
Bông vải là mối hàng cung cấp cho các tỉnh ven biển
nằm giữa Bắc Kỳ và Nam Kỳ và một số bông vải tốt đã
được bán sang tỉnh Quảng Châu bên Trung Quốc với giá
bán 20% rẻ hơn so với bông vải sản xuất từ xứ Bengale
bên Ấn Độ. Triển vọng phát khai thác công nghiệp sản
xuất bông vải rất là to lớn và nhất là có thể cải thiện
một cách đáng kể.
Diện tích trồng mía cũng tương đương với diện tích
trồng bông vải. Sản lượng đường mía lên đế 7,500 tôn-nô
và một phần trong số nầy cung cấp cho miền Bắc bằng
ghe thuyền đường biển. Trị giá sản lượng nầy là 4 triệu
đồng quan Pháp.
Ở Pháp quốc hiện nay người ta nhắm vào vào các nguồn
tài nguyên từ việc nuôi tằm trên lãnh thổ thuộc địa
của chúng tạ Có thể nói rằng nghề nuôi tằm ở đây chỉ
mới được gieo mầm trong tình trạng phôi thai.
Kỹ nghệ nuôi tằm lấy tơ dù rất phổ biến ở Nam Kỳ nhưng
phải nói rằng rất hiếm thấy. Không có một nơi nào hội
đủ các yếu tố cần thiết để có thể sản xuất một cách
quy mô. Người trồng dâu thì không trực tiếp nuôi tằm
còn người nuôi tằm thì phải tìm lá dâu ở nơi khác. Căn
nhà lụp xụp của người An Nam thường cũng là một căn
trại nhỏ nuôi tằm và sản xuất nhiều lắm vài cân tơ sợi.
Kỹ thuật kéo tơ còn thô sơ, màu sợi tơ thì vàng, sợi
tơ thô và chỉ kéo được chưa tới 1/2 kí lô sợi .Chu kỳ
nuôi tằm lấy tơ kéo dài trong khoảng từ 45 đến 50 ngày.
Trứng tằm chỉ có thể sống và nở trong vòng 10 ngày.
Sâu tằm có thể sinh sản quanh năm.
Diện tích trồng dâu nuôi tằm khoảng 2,050 héc-ta để
sản xuất khoảng 6,000 kí lô sợi tơ thô trị giá 240,000
đồng quan Pháp. Miền Bắc nhập cảng một số mặt hàng tơ
lụa sản xuất từ Sài Gòn.
Ngoài những nguồn khai thác vừa kể trên còn có thêm
những nguồn khai thác khác ít quan trọng hơn như cây
chàm (tràm) được trồng ở Biên Hòa trên một diện tích
400 héc-ta; sản xuất muối ăn ở Bà Rịa với một diện tích
là 500 héc-ta với sản lượng 70,000 tôn-nô muối trị giá
1,200,000 đồng quan Pháp. Đây là một loại nhu yếu phẩm
vật cần yếu để giao thương với các bộ tộc trong nội
địa và ở vùng đồng bằng sông Mé-Kong, một loại nhu yếu
mà họ không thể nào sản xuất được. Rau cải phơi khô,
trầu, cau, cây thuốc nhuộm cung ứng cho các tỉnh nội
địa ở miền Tây hay ở các tỉnh ở Cao Miên. Cá khô mặn,
gạo, bắp, là nguồn thức ăn cho toàn thể dân chúng, cây
gỗ xây cất, phân bón động vật, dây thừng bằng nứa hay
bằng sơ dừa, bao đựng thóc, các loại hương liệu, trà
kém phẩm chất so với trà Trung Quốc, vân .,vân . , tất
cả các thứ nầy đều nằm trên bản danh sách các sản vật
trao đổi giữa dân chúng bản xứ trên vùng đất Trung Ấn
nầỵ
Để tránh sự trình bày chi tiết trở thành các khô khan,
tôi sẽ tóm lược những sản lượng chính yếu trong 3 tỉnh
của chúng ta trong một bản liệt kê như sau:
Diện tích Sản lượng Trị giá Ghi chú
Sản vật canh tác kg francs
héc-ta
Lúa gạo 105,000 210,000,000 35,000,000 Số lượng trọng
tãi
Thuốc lá 4,000 5,000,000 1,200,000 Lá thuốc phơi khô
Bông vải 2,500 3,500,000 3,000,000 Đã tuốt hột
Đường mía 2,500 7,500,000 4,000,000 Đường thô
Tằm tơ 2,000 6,000 240,000 Tơ sợi thô
Muối ăn 500 70,000,000 1,200,000 Chưa tinh chế
Cây trà 400 500,000 200,000
`Trầu 200 3,000,000 1,200,000 Lá trầu tươi
Rau, trà, Trồng trọt trên các
đậu phọng ? 1,000,000 4,800,000 hửa đất nhỏ khó có
liệt kê chính xác
Cau 3,000,000 cây ? 3,000,000 Bán từng quày cau.
Dây thừng ? 1,500,000 300,000
Ngư nghiệp 1,000,000
Màu nhuộm 200,000 160,000 Cây nhuộm, dây
móc câu, rệp son
Hạt ép dầu 800,000 200,000
Thú sản 1,000,000 500,000 Da, sừng, ngà voi
117,000 304,000,000 56,000,000
Trong bảng liệt kê nầy, tôi chỉ mới đưa ra những sản
vật xuất cảng. Các loại cây gỗ xây cất chưa có thể liệt
kê ra được và mặc dù có một trị giá đáng kể việc khai
thác loại sản vật nầy vẫn chưa được đặt trên một căn
bản thường xuyên. Tôi chỉ cần nêu ra rằng riêng năm
1863, đã có 6 tàu chở sang Thượng Hải nhiều loại gỗ
quý hiếm, điều nầy cho thấy nền khai thác gỗ sẽ trở
thành một nguồn lợi tức phong phú của dân chúng.
Người ta thấy rằng nếu cộng thêm vào các phần đất đang
canh tác một diện tích 80,000 héc-ta sau một thời hạn
gieo trồng lúa thóc thì sẽ có một vùng đất trồng trọt
là 2,000 cây số vuông. Thêm vào đó, 500 cây số vuông
đất vườn trồng hoa màu chia cắt vụng vặt đến mức không
thể đưa vào bàn liệt kê vừa mới trình bày ở phần trên;
2,000 cây số vuông sông rạch, đồng lầy, đường xá, nhà
cửa vân. . .vân . . ., nâng con số nầy lên thành 4,000
cây số vuông. Như vậy, diện tích 3 tỉnh của chúng ta
là 8,000 cây số vuông. Trong diện tích nầy thì 3,500
cây số vuông là đất hoang hay rừng đang chờ đợi chúng
ta khai thác trong tương lai. Các phần đất nầy phần
chính nằm ở phía Bắc tỉnh Gia Định và tỉnh Biên Hòa,
tức là những vùng trù phú hơn hết của lãnh thổ Nam Kỳ
thuộc Pháp. Vì là vùng đất cao và khó tưới nước hơn
là ở các vùng đất ven biển cho nên không thể cấy trồng
lúa thóc theo tập tục của người dân An Nam và như chúng
ta đã thấy, ngoài ngành nông nghiệp trồng lúa thì tất
cả những vùng đất màu mỡ khác vẫn còn nằm trong tình
trạng phôi thai mặc dù chúng có tất cả những khả năng
sản xuất tuyệt hảo. Các vùng đất phía Bắc phì nhiêu
không bị ô nhiễm nầy nếu được khai khẩn trồng cây thuốc
lá, bông vải, đường mía, dâu tằm thì đây là một sự phát
triển lớn lao hiện nay đang chờ đợi chúng ta.
Đừng cho rằng thiếu bàn tay nhân lực để cáng đáng cho
nhu cầu phát triển nầy. Nếu kiểm kê một cách nghiêm
chỉnh thì số dân trong vùng đất thuộc địa của chúng
ta hiện giờ lên tới 1,100,000 dân so với mức bình thường
là 1,400,000 dân và nếu như sự thiết đặt cơ sở của chúng
ta được thực hiện một cách lâu dài và hòa bình được
bảo đảm thì số dân số bình sẽ đạt lại mức bình thường
nầy trong một tương lai rất gần.
Như vậy mật độ phân bổ cư dân là 160 trên 1 cây số
vuông, một mật độ cao so với nhiều nước ở Âu Châu. Một
điểm khác cần lưu ý ở đây là hầu hết dân bản xứ sinh
sống theo nông nghiệp còn thợ thuyền, lái buôn thì hầu
như hoàn toàn thuộc về những khách di dân Ấn Độ và Trung
Quốc.
Như vậy, không những chúng ta không phải sợ thiếu bàn
tay nhân lực để khai phá và canh tác ở Nam Kỳ hạ, chúng
ta còn có thể cung ứng nguồn nhân lực đó và chúng ta
đã thực hiện điều nầy cho thuộc địa của chúng ta ở vùng
Bourbon.
Tôi cũng sẽ phải nhận định rằng, những số liệu được
đưa ra ở đây là những con số tối thiểu sau khi đã cẩn
thận loại trừ những điều phô trương phóng đại cũng như
những thành quả chưa được tin cậy. Khi nhắc lại tính
cách không vẹn toàn trong chế độ nông nghiệp của người
An Nam là họ bỏ qua tất cả các ngành nông nghiệp khác
để chỉ chú trọng vào những đồng ruộng sản xuất lúa gạo
cho tương lai thì có thể nói rằng con số 200,000,000
trị giá sản phẩm xuất cảng hằng năm từ 3 tỉnh của chúng
ta sẽ không bị xem như là một sự phô trương quá mức
khi mà tất cả mọi lãnh vực về nông nghiệp đều được khai
thác cho ngành xuất cảng hiện nay.
Đến đây, chúng ta thử xét xem nền thương trường của
người Âu Châu hiện đang khai thác như thế nào những
nguồn tài nguyên đó. Tôi sẽ không đề cặp đến những năm
đầu tiên của cuộc xâm chiếm vì có những tình huống quá
đặc biệt gây ảnh hưởng trên những kết quả thu gặt được
khiến cho việc so sánh những kết quả đó không thể thực
hiện được; Thí dụ như vào năm 1860 vì có nạn đói xảy
ra ở Ấn Độ cho nên phải xuất cảng 55,000 tôn-nô gạo
mặc dù lúc đó Sài Gòn đang bị quân dân An Nam phong
tỏa cùng với những luật lệ quá đáng; năm 1861, khi chiến
tranh bùng nổ thì tình trạng pháp lý và thương mại cũng
vẫn giữ một mực như thế; năm 1862 dân quân nổi dậy vào
thời điểm thu gặt khiến một phần lớn bị tiêu hao mất
đi. Mặc dù năm 1863 tình trạng bất ổn vẫn còn dây dưa
nhưng đã có một số lượng là 75,000 tôn-nô được luân
lưu trong năm nầy. Vào tháng 11, vì có sự phản đối của
dân chúng, quan thống đốc đã phải một vài lần lo bảo
vệ cho việc xuất cảng gạo thóc. Tuy nhiên, nếu mùa thu
gặt được thực hiện một cách yên bình thì có thể nó cũng
sẽ mang lại cho xứ nầy một nền xuất cảng bình thường
và liên tục. Vào ngày 1 tháng 1 dl (năm 1864), lệnh
cấm xuất cảng gạo được tuyên bố (đúng ra La Grandière
đã ra lệnh cắm xuất cảng gạo từ tháng 8 dl năm 1863
= chú thích riêng của người dịch dựa theo sách Abrégé
de l' Histoire d' Annam của tác giả Alfred Schreiner,
trang 259), và mặc dù có những hiệu quả giận dữ ở bên
ngoài vòng kiểm soát từ trước đây, hoạt động chuyển
vận đường thủy trong 3 tháng đầu năm 1864 cũng được
ghi nhận như sau:
Nhập bến cảng Sài Gòn từ 1 tháng 1 dl đến 1 tháng 4
dl năm 1864: 26,063 tôn-nô do 75 tàu thuyền khác nhau
chuyên chở tới, bốc dở từ tàu vào kho cảng bởi 2,105
lần khuân vác của các phu khuân vác đi theo tàu thuyền;
trong số trọng tải nhập bến nầy thì tàu thuyền của Pháp
đã chở đến 10,332 tôn-nô.
Cùng trong thời gian đó, trọng lượng hàng hóa rời bến
cảng Sài Gòn là 24,898 tôn-nô chuyển vận do 75 tàu thuyền
khác nhau, bốc dở hàng lên tàu thuyền bởi 1,611 lần
khuân vác của các phu khuân vác đi theo tàu thuyền;
trong số trọng tải rời bến cảng nầy thì tàu thuyền Pháp
đã chở đi 11,294 tôn-nô.
Tổng số chuyển vận sản vật được phân bổ qua 86 tàu
thuyền khác nhau cho một trọng tải là 29,000 tôn-nô,
trong số đó có 17 tàu thuyền và 5 tàu chạy bằng máy
hơi nước của Pháp chuyển tải 7,323 tôn nô.
Lại phải cộng thêm vào từ 7 đến 8,000 tôn-nô từ ngành
chuyển vận cận duyên tắp nập của các ghe thuyền dọc
theo bờ biển chạy dài từ đảo Hải Nam đến bến cảng Sài
Gòn. Hoạt động chuyển vận nầy mang tới lãnh thổ của
chúng ta các mặt hàng như vải tơ lụa, vôi, cá khô mặn,
nước mắm, vân. , vân. , và chở đi các mặt hàng như gạo,
đường, bông vải, rơm lợp mái nhà vân. , vân. .
Như vây, tổng số trọng tấn xuất cảng từ bến cảng Sài
Gòn là 32,000 tô-nô. Cần trừ đi trọng tấn chuyển vận
khoảng 6,000 tô-nô của 5 tàu chạy bằng máy hơi nước
để có được con số trọng tải hàng hóa ngoại thương thực
sự từ vùng lãnh thổ thuộc địa của chúng ta: 32,000 -
6,000 = 26,000 tôn-nô. Con số nầy được liệt kê thành
chi tiết như sau(1):
Mặt hàng Trọng tấn Trị giá
(tôn-nô) (đồng quan)
Gạo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23,000
tôn-nô 3,700,000 fr.
Đường . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1,000 640,000
Gỗ xây cất . . . . . . . . . . . . . . . 300 60,000
Thú sản . . . . . . . . . . . . . . . . . 100 50,000
Trầu cau . . . . . . . . . . . . . . . . . 400 250,000
Bao đựng gạo và rơm . . . . . . . 700 50,000
Linh tinh (cây tràm,
tiệu hạt, dây thừng,
cây thuốc nhuộm) . . . . . . . . . 500 250,000
Tổng cộng: . . . . . . . . . . . . . . . 26,000 tôn-nô
5,000,000 fr.
____________
(1) Cần phải giải thích một vài điểm bất thường về những
số liệu được tôi nêu ra: người ta sẽ lấy làm lạ kỳ khi
thấy rằng 75 tàu thuyền nhập bến cảng Sài Gòn mà phải
cần đến 2,100 lược khuân vác bởi các phu khuân vác để
bốc dở trong khi 73 tàu thuyền xuất bến cảng Sài Gòn
lại chỉ cần có 1,611 lược khuân vác. Lý do của sự sai
biệt nầy là vì vào thời kỳ gió mùa theo hướng Bắc-Đông,
số thuyền buôn của người Trung Quốc nhập bến cảng Sài
Gòn rất nhiều và số lượng chuyên chở cũng như số thủy
thủ khuân vác trên các tàu thuyền nầy của người Trung
Quốc thường nhiều gắp bội so với các tàu thuyền của
các nước Âu Châu có cùng một sức sức chuyên chở. Số
trọng tấn của 75 tàu xuất bến cảng Sài Gòn là do những
tàu mang cờ hiệu của các nước Âu Châu đảm trách cho
nên số thủy thủ đoàn khuân vác trên các tàu thuyền nầy
ít hơn.
Trong số 5 tàu chạy bằng máy hơi nước nhập bến cảng
Sài Gòn trong 3 tháng đầu năm 1864 được nêu ra ở trên
thì 4 chiếc là tàu chuyển vận của hoàng gia Pháp. Trên
thực tế các tàu nầy dự phần vào đội thương thuyền của
Pháp. Số sản lượng chuyên chở của các chiếc tàu nầy
để xuất bến cảng Sài Gòn chỉ có 6,000 tôn-nô và số nhập
là 5,000 tôn-nô.
Số tổng cộng và sự phân chia mà tôi đã nêu ra ở bản
liệt kê trên đây có vài điểm sai biệt với các số liệu
chính thức do báo chí của chính quyền thuộc địa đã và
sẽ đưa ra. Sự sai biệt nầy thường là do ở việc phóng
chừng tình hình hoạt động chuyên chở cận duyên mà chỉ
dựa trên tình hình chuyển vận ở Sài Gòn để lập thành
các bản thống kê. Có rất nhiều giao dịch bên trong nội
địa không được chú trọng tới. Chính là việc nghiên cứu
các mặt hàng nội địa dự trữ chứa trong các kho nhất
là từ các kho ở thành phố Chợ Lớn của người Hoa mà tôi
đã đưa ra những con số lên bản kê khai kể trên, chỉ
có những số liệu mà tôi cho rằng càng gần đúng với thực
tế thì càng tốt.
*
Tình thế nầy có vẻ như là ghi nhận một sự thịnh vượng
tương đối nhưng đồng thời còn là sự biểu lộ một tình
trạng trì trệ rõ rệt.
Tàu thuyền thưa thớt trên các sông rạch đúng như người
ta có thể dự kiến sau khi bến cảng Sài Gòn đóng cửa
vào tháng 11 và tháng 12 đã qua. Gạo thóc chứa trong
các kho ở Sài Gòn và Chợ Lớn gia tăng; giá thị trường
từ 12.fr đồng quan Pháp mỗi tạ (1 pikul = 122 pounds
tức vào khoảng 66 kí l ô) thì nay sụt giá còn có 9.fr
trong khi đó thì cước phí chuyên chở lại gia tăng một
cách đáng giận.
Vào ngày 1 tháng 4 d.l, hàng tồn kho ở Chợ Lớn, một
trung tâm thương mại quan trọng nhất trong ba tỉnh của
chúng ta, được ghi nhận như sau:
Gạo 20,000 tôn-nô
Rau cải khô 1,000 "
Linh tinh (nhiều nhất là cây nhuộm) 1,500 "
Người ta đang đợi một số lượng bông vải đáng kể từ
Nam Vang và từ Biên Hòa; gạo thóc tiếp tục gia tăng
bởi các đoàn xe vận tải và nhập vào kho thành phố với
mức độ từ 5 đến 6,000 tạ mỗi ngày, tương đương với trọng
tải chuyên chở của một tàu bình thường. Người ta mong
rằng sau khi đã biết rõ rệt thì tình trạng nầy sẽ được
đổ dồn vào các tàu lớn trong bến cảng Sài Gòn. Hậu quả
là càng phải cần dựa vào thực tế để dự đoán sự chuyển
vận hàng hóa một cách tổng quát trong năm theo cách
tính toán áp dụng cho thời kỳ 3 tháng đầu năm. Theo
cách tính toán nầy thì có 104,000 tôn-nô hàng xuất bến
cảng mà trong số đó gạo thóc chiếm hết 92,000 tôn-nô.
Vậy, như đã thấy, là có thể ước lượng khoảng 1000,000
tôn-nô cho mặt hàng nầy xuất bến cảng cho một mùa gặt.
Người ta lại có thể hy vọng rằng vào năm 1864 sự chuyển
vận đường thủy sẽ gia tăng thêm 1/3 so với năm trước.
Trị giá hàng chuyển vận xuất bến cảng nếu được tính
theo cách thức như trên sẽ đạt tới mức 20 triệu đồng
quan Pháp.
Việc đánh giá các mặt hàng nhập bến cảng thì khó hơn.
Tuy nhiên vì mặt chuyển vận nhập bến cảng ít quan trọng
hơn, cho nên chỉ cần định giá loại nào mà tôi gọi là
có giá trị thực chất cho thuộc địa của chúng ta. Cần
một thời gian lâu hơn để phát triển ngành nhập cảng
và Sài Gòn sẽ sớm trở thành một thị trường hàng hóa
sản xuất từ Pháp quốc để cung ứng cho các nước trong
vùng biển Trung Hoa hơn là cho vùng lãnh thổ thuộc địa
của chúng ta.
Hơn nữa, muốn đánh giá ảnh hưởng của sự chuyển vận
nhập vào bên cảng Sài Gòn đối với sự chuyển vận trong
ngành kỹ nghệ của nước Pháp như thế nào thì không những
phải chú ý tới thị trường hàng tiêu thụ mới được nhập
bến cảng Sài Gòn mà còn phải xét tới tính cách mới mẻ
và phong phú của các mặt hàng đó tạo ảnh hưởng như thế
nào lên nền thương mại của nước Pháp ở Singapore, ở
Hồng Kong và ở Thượng Hải.
Trước đây 5 năm rất hiếm thấy những mặt hàng của nước
Pháp trên thị trường của 3 lãnh thổ vừa kể trên. Ngày
nay thì các mặt hàng từ Paris, đồ hàng xén, thực phẩm
mang nhãn hiệu nước Pháp tràn ngập tại 3 nơi đó.
Hàng sành sứ, hàng gia dụng của Pháp hầu như đánh gục
các mặt hàng tương tựa của người Anh.
Vào năm 1855, vào 3 tháng cuối năm, hoạt động chuyển
vận tại bến cảng Thượng Hải gồm có 564 tàu thuyền trong
số nầy gồm có 249 tàu thuyền của người Anh, 57 của Mỹ,
7 của Đan Mạch, 11 của Hòa Lan, 11 của xứ Hambour, 9
của Thụy Điển, 3 của nước Peru, 2 của xứ Brême, 6 của
nước Tây Ban Nha, 5 của nước Bồ Đào Nha, 4 của nước
Xiêm La. Người ta thấy hầu như tất cả các nước có nền
hàng hải đều hiện diện ngoại trừ nước Pháp.
Năm 1863, có 22 tàu thuyền hàng hải Pháp nhập bến cảng
Thượng Hải. Những kết quả tương tựa cũng được nhận thấy
ở cảng Singapore và Hồng Kong.
Sau cùng, trị giá hàng nhập bến cảng Sài Gòn trong năm
1863 là 12 triệu đồng quan Pháp trong đó có 7 triệu
đồng quan hàng hóa Pháp so với tổng trị giá hàng hóa
Pháp nhập các bến cảng trong vùng biển Trung Hoa là
20 triệu đồng quan trong cùng năm nầy và tổng số trị
giá của nền hàng hải thương mại của Pháp chưa đạt được
tới mức 100 triệu đồng quan fr.
Để có một sự so sánh cuối cùng về những điểm liên hệ
đến các vùng lãnh thổ thuộc địa của chúng ta, tôi thêm
rằng, tổng giá trị thương mại xuất nhập cảng của toàn
thể nước An Nam vào năm nhộn nhịp nhất tức vào năm 1841
là 3 triệu đồng quan fr.
Dù tôi có đánh giá quá đáng về tình hình cư dân bản
xứ Nam Kỳ hạ chịu đầu phục tức khắc và toàn diện thì
cũng hy vọng rằng, trong khoảng một thời gian thật ngắn
người ta sẽ thấy rằng việc xâm chiếm lãnh thổ có thể
giảm lần lần xuống mức độ bình thường và chính quyền
cai trị quân sự sẽ được thay thế bằng chính quyền cai
trị dân sự. Không thể chối bỏ những thành quả mà phía
quân sự đã thi hành để chiếm cứ và tổ chức cai trị lãnh
thổ thuộc địa nhưng người ta lại không thể nào phủ nhận
rằng vẫn còn có một sự lo âu nào đó trong tâm trí; nếu
thay đổi những đường hướng sự vụ cần thiết và thường
xuyên thì sự lãnh đạo sẽ không được tốt; nếu muốn thấy
cái gì cũng phải tuyệt đối thì sẽ bị lầm lỗi khi đặt
xứ sở phải thích hợp theo ý hướng riêng của mình thay
vì phải sửa đổi những ý tưởng của riêng mình tùy theo
tình hình của xứ sở.
Trong những chiến dịch quân sự ở Nam Kỳ hạ không có
gì đòi hỏi khác hơn là sự quyết định với lòng kiên trì
và người ta đã luôn luôn thấy dân cư bản xứ ít hiếu
chiến phải chịu khuất phục trước bất cứ một sự biểu
dương lực lượng ngay từ lúc mới khởi phát .*1 (*1 :
dĩ nhiên là tôi không muốn nói tới cuộc khởi đầu xâm
lược lãnh thổ nầy ). Vậy thì chúng ta hãy thừa cơ hội
dễ dàng của công tác bình định hiện giờ và trong tương
lai như vừa được tóm lược ở đây để tránh khỏi những
công tác chinh phục dai dẳng tai hại như đã xảy ra ở
nước An-giê-ri, để thay thế chính quyền quân sự bằng
một chính quyền dân sự ngay từ lúc quyền lực của chúng
ta đã được thiết đặt trên các vùng đất nầy. Như vậy
có nghĩa là chuyển từ tình trạng chuyển tiếp sang tình
trạng ổn cố, từ tình trạng nhất thời sang tình trạng
vĩnh viễn, chấm dứt tình trạng e dè lưỡng lự trong nền
thương mại và mang lại một sức đẩy mới cho các doanh
nghiệp của các nước Âu châu.
Dù rằng có những thể chế chao đảo liên tiếp từ 18 tháng
qua ở Nam Kỳ hạ, dù có những biện pháp đối nghịch, những
cách giải quyết ấu trĩ, những trói buộc không cố ý ảnh
hưởng lên những sáng kiến thì lãnh thổ thuộc địa của
chúng ta vẫn có một sức sống lớn lao mà người ta có
thể so sánh với câu nói Fara da se (tự mình giải quyết
lấy) khi nóí về nước Ý Đại Lợi. Chỉ trong vòng 2 năm
đã có 200 căn nhà của người Âu Châu ở Sài Gòn (có thể
F.Garnier nói từ năm 1862 tức là năm hoà ước Giáp Tuất
được phê chuẩn đến năm 1864. Chú thích của F.Garnier
cho biết rằng vào ngày 1 tháng 3 số nhà lợp ngói là
177 và số nhà lợp lá là 147 (nhà phụ . v.v . .) .
Vào ngày 1 tháng 5 loại nhà lợp ngói tăng lên quá con
số 200 rất nhiều). Những căn nhà của người Âu Châu nầy
được xây cất lại từ những ngôi nhà đổ nát của người
An Nam trước đây để lập thành phố thủ đô thuộc địa của
người Pháp với số dân cư gần 4 triệu người; đó là không
kể đến giá trị đất đai. Thương nghiệp hiện đang thử
bổ xung những khiếm khuyết trong các công tác do nhà
nước (Pháp quốc) đảm trách bằng cách thành lập một công
ty đào vét vũng ụ sửa chữa tàu thuyền; một dịch vụ thông
tin liên lạc giữa Singapore và Sài Gòn bằng loại tàu
chạy máy hơi nước để thay thế cho ngành chuyển đạt thư
tín thất thường và tùy thời do các tàu chiến đảm trách
định kỳ theo ngành chuyển vận của hoàng gia Pháp quốc.
Các kỹ nghệ máy móc, khai thác gỗ được thành lập. Một
vài nhóm thực dân ở vùng Bourbon bị thu hút bởi các
tiện ích chuyển vận của xứ nầy cho nên họ đang suy tính
thiết đặt các nhà máy lọc đường mía ở đây để giảm bớt
chi phí tiêu hao trong việc dùng quá nhiều lừa và xe
kéo để chuyển tải mía ở đảo Réunion. Thị trường chuyển
nhượng trồng cây thuốc lá đang thành hình. Ngành kỷ
nghệ tơ tằm đang được chú trọng nghiên cứu. Tấc cả những
sự tiến triển được nẩy nở giữa những tình hình không
mấy tốt đẹp cùng với những mâu thuẫn tai hại. Số kiều
dân Âu châu ở Sài Gòn ngang bằng và có thể vượt hơn
số kiều dân Âu châu ở Singapore đã có kể từ 50 năm qua
tới nay. Phải chăng tất cả những điều nầy lại là những
bằng chứng nguy hại cho các mầm móng nẩy sinh sự phồn
thịnh ma thiên nhiên đã đặt để trên phần lãnh thổ nầy
của miền Nam Kỳ hạ hay sao? Và phải chăng chúng ta không
thấy được rằng chúng ta đang hưởng được lợi lộc một
cách nhanh chóng hơn là chúng ta mong đợi hay sao ?
*
III
Trên đây là thời điểm hiện tại của miền Nam Kỳ thuộc
Pháp. Phải thấy rằng thời điểm nầy không phải chỉ là
những hứa hẹn nhưng nó cho phép ta dự tính được tương
lai một cách xác thực. Tôi lặp lại rằng: đừng quên chúng
ta đang ở vào buổi giao thời của cuộc chinh phục và
chỉ mới đếm được từng giờ chung đụng với một dân tộc
đã sinh sống lâu đời ở đây
Chương
28
Nếu biết khai triển tình trạng hiện giờ của những nguồn
tài nguyên trên thuộc địa cùng với những môi trường
mà lãnh thổ nầy cung ứng cho nền thương mại thì chúng
ta có thể hy vọng rằng vận mệnh của lãnh thổ thuộc địa
nầy sẽ rất thịnh vượng và phong phú. Tuy nhiên, ngoài
sự màu mỡ phong phú riêng của lãnh thổ thuộc địa hiện
nay lại còn những thứ màu mỡ phong phú khác mà tôi chưa
nói đến, và với đà chiến đấu đang gia tăng từ từ của
quân ta hướng về các miền xa xôi thì sớm muộn gì các
thứ ấy sẽ được lôi kéo vào vòng quỹ đạo sinh hoạt của
chúng ta: thật vậy, chúng ta thử dành ít phút để xem
xét vị thế của Sài Gòn với những ngòi rạch giao thông
nối liền những nguồn mạch nước quan yếu chảy qua các
nước nằm trên bán đảo Ấn-Hoa và hàng hàng lớp lớp thị
trường thiên nhiên rộng mỡ cho các sản phẩm của vùng
đất rộng lớn mênh mong nầy; hãy điều tra dòng lưu hành
của những con sông lớn bắt nguồn từ cao nguyên nước
Tây Tạng chảy xuyên qua các phần đất đông dân cư của
Trung Quốc; hãy thử đo lường sự phong phú của những
tài nguyên chưa được khai thác nơi các vùng đồi núi
dọc quanh các con sông lớn đó. Nếu nghe theo những truyện
kể của các người du hành thì các vùng đồi núi nầy có
những cư dân cần cù khéo léo đang làm ăn giao dịch với
Thiên Quốc Trung Hoa. Có một điều chắc chắn là tỉnh
Vân Nam của Trung Quốc hằng năm gởi đi rất nhiều công
nhân xuống vùng thượng nguồn sông Mê Kong ở trên lãnh
thổ Cao Miên để khai thác các loại hầm mõ hổ phách,
cẩm thạch trắng, kẽm, vàng, bạc. Rất nhiều bộ tộc người
Lào sản xuất rất nhiều lúa gạo, bông vải, tơ sợi bán
cho Trung Quốc và mua lại những sản phẩm công nghiệp.
Phẩm chất cao cấp của các loại sơn, sáp, cây đại hoàng
mà Trung Quốc xuất cảng sang các nước Âu Châu với giá
thật đắt đều được khai thác từ vùng đất chưa khai phá
nầy, một nơi mà vạn vật thiên nhiên được cấu thành không
khác gì nếu so sánh với tất cả những vùng đất thực vật
sung túc ở dãy núi Hi Mã Lạp Sơn. Ngoài ra còn có loại
cây nhựa kết, mộc hương, cây bồ đề (an tức hương) để
chế biến các loại dầu bay hơi và dầu cánh kiến (để pha
chế sơn vẹt ni đánh bóng đồ gỗ), cây lấy hạt anit, cây
nhân sâm để lấy củ và rể dùng trong ngành Đông y, nhiều
loại cây quý để lấy tinh dầu , vân . . .vân . . ., tất
cả đều có thể tìm thấy tại vùng đất được thiên nhiên
ưu đãi nầy, một nơi mà người ta có thể nhận thấy được
nhiều ngành thương mại phát sinh từ những tài nguyên
nầy giống như ở những nơi khác.
Cho đến bây giờ vì phải bận rộn với cuộc chiến tranh
và công tác tạo dựng cơ sở của chúng ta ở Nam Kỳ hạ
cho nên chưa có thể nghiên cứu về mặt địa hình và thống
kê những nước lạ lân cận. Sát gần những đường ranh biên
giới lãnh thổ của chúng ta hiện nay, mạn phía Bắc không
còn có thể thu thập được một tin tức nào nữa và tình
trạng mù mịt lớn lao dang ngự trị ở phía đó. Không có
gì gọi là ảo tưởng để giả định rằng ngày mà chúng ta
đã xâm nhập được vào nơi hỗn độn và tạo dựng được những
mối dây liên hệ hòa bình với các vùng sung túc phì nhiêu
nầy thì con đường thuận lợi và an toàn từ nước Cao Miên
sẽ mang đến cho cơ sở của chúng ta những sản vật mà
hiện nay nước đó đang chở sang Trung Quốc. Một trung
tâm thương mại to lớn luôn luôn tạo ra một sức thu hút
rất hiệu nghiệm, và do đó các sản phẩm từ các nước Âu
châu sẽ lấn lướt thay thế các sản phẩm của Thiên triều
Trung Quốc trong các ngành giao thương.
Như vậy, có thể xem như đã trả lời những câu hỏi của
một nhân vật ngoại giao (Dubois de Jancigny) công du
các nước thuộc vùng biển Trung Quốc vào năm 1850 và
nhất định là ta sẽ không phí công để đọc lại những câu
hỏi đó. Ông ta viết: "Hiện nay có những bộ tộc
nào sống rải rác dọc theo hai bên bờ của dòng sông Mékong
? Những người dân thuộc các bộ tộc nầy từng chịu áp
bức từ bây lâu nay thì tương lai của họ sẽ ra sao khi
mà chỉ có sự giao tiếp với người Âu Châu mới có thể
mang đến cho họ những lợi ích văn minh và thương mại?"
Ông ta viết tiếp: "Những thắc mắc cần được giải
quyết nầy hình như chỉ đặt ra cho nước Anh vì rằng những
cơ sở của họ trong vùng sông Ténasserim ở Miến Điện
và vùng bán đảo Mã Lai chỉ đạt được tới một mức độ phát
triển và thịnh vượng mà động lực là những nhu cầu bức
thiết gặt hái từ những sự thể xảy ra ngoài ý muốn.
Con sông Dương Tử rộng lớn, một con sông huyết mạch
của Trung Quốc (còn gọi là Thanh giang) cùng phát nguồn
từ cao nguyên Tây Tạng giống như con sông Cam-Bốt (tức
là sông Mê Kong. Hai con sông lớn nầy cùng chảy song
song và gần sát với nhau mà chỉ cần một con kinh đào
cũng khiến cho chúng có thể thông thương được với nhau.
Chỉ nhìn lên bản đồ thì cũng có thể đánh giá được tầm
mức quan trọng của đường sông thông suốt nầy luân lưu
liên tục trong nội địa của một đế quốc giàu có trên
địa cầu với một chiều trải rộng gần 1,500 dặm (1 dặm
đường bộ = 4 km; 1 dặm đường biển = 5.5 km).
Phải thấy được những công trình nghiên cứu thuộc bản
chất nào cần phải thực hiện để ước lượng một cách toàn
vẹn giá trị vị trí hàng đầu của Sài Gòn trên một mạng
lưới thương mại vô cùng kỳ diệu và chính quyền sẽ không
chần chừ để thực hiện những công trình nghiên cứu theo
chiều hướng đó. Tuy nhiên, ngoài phần giả định của vấn
đề, lại còn có sự gia tăng của những nguồn thông tin
chắc chắn về vị trí quan yếu của Sài Gòn, xem Sài Gòn
như là một nhà kho trung gian chứa những sản phẩm của
một số vùng ở Á Châu. Vùng vịnh biển Xiêm La (Thái Lan)
không có được một bến cảng nào có thể so sánh với bến
cảng Sài Gòn; ngoại trừ được dùng như là con đường biển
giao lưu để đi sang Trung Quốc, các vùng cận duyên của
vịnh Xiêm Lan rất nguy hiểm và khó khăn cho cho tàu
thuyền vào sát bờ biển. Ở phía bên kia thì những kinh
rạch trong nội địa là những tiện ích lớn lao cho việc
chuyển vận hàng hóa từ khắp nơi đưa vào bến cảng Sài
Gòn và có thể không ngần ngại mà nói rằng đây mới chính
là nơi mà ngành thương mại chọn làm điểm bốc dở hàng
hóa xuất nhập bến cảng.. Gạo, bông vải, gỗ đóng thuyền
buồm, ngà voi từ nước Cam Bốt (Cao mIên), quế hương
từ các tỉnh miền Trung (Trung Kỳ), kim loại quý, tơ
sợi từ miền Bắc (Bắc Kỳ) sẽ đổ vào thêm cho nguồn tài
nguyên địa phương của Nam Kỳ hạ và sẽ biến lãnh thổ
thuộc địa của chúng ta trở thành một trọng lực mạnh
mẻ đối kháng với ảnh hưởng lan tràn của người Anh ở
Miến Điện. Chỉ cần một ít khôn khéo chinh phục và đưa
vương quốc Xiêm, đế quốc Ava (hay đế quốc Miến Điện)
liên minh với chúng ta. Vì lý do địa thế mà nước Cam
Bốt đã chịu đặt dưới sự đô hộ của chúng ta và các điều
kiện thi hành chính sách bảo hộ vừa được chuẩn phê từ
nước Pháp. Đã có thể nhìn thấy trước được một cuộc hành
trình nhanh chóng và cấp thiết của quân đội chúng ta
vào vùng bán đảo sung túc phì nhiêu nằm giữa Trung Quốc
và Ấn Độ. Tôi nói ngay thêm rằng quá trình chinh phục
nầy luôn luôn cần phải theo phương cách hòa bình ngay
từ lúc chúng ta đã chiếm hữu được một vị thế yên ổn
và bình thường ở An Nam.
Với một chút nhận định về tình hình hiện nay của đế
quốc Trung Hoa mênh mông đang bị đe dọa phân hóa trong
tương lai thì người ta sẽ không khỏi bàn hoàng về sự
kiện 400 triệu con người hòa nhập vào với cuộc sống
của nhân loại. Chỉ cần nghĩ tới những nguồn tài nguyên
bao la và nền công nghiệp lớn lao của dân tộc nầy thì
người ta đồng ý một cách dễ dàng rằng những thành tố
mới mẻ mà đất nước đó mang đến cho sự giao lưu sẽ tạo
ra một sự thay đổi toàn diện những điều kiện về trao
đổi, về các định mức, về lao động, những điều mà các
nước văn minh hiện đang bị bế tắt. Bởi thế cho nên cần
để mắt theo dõi một cách chi li tiến trình và những
đột biến của cuộc chiến đang diễn ra trên nước Trung
Hoa để tùy theo đó mà hướng dẫn cuộc viễn chinh của
người Pháp đạt được những thành quả tốt nhứt đối với
những cuộc xâm chiếm mới.
Cuộc khủng hoảng nhứt thời nầy gây ra một đối lực đen
tối trên các thị trường của người Âu châu trên lãnh
thổ Trung Quốc: tỉnh Thượng Hải sau khi dã vương lên
tới một mức kỳ diệu thì bị khựng lại vì những ảnh hưởng
của những biến cố chính trị. Nếu đế quốc Trung Hoa bị
suy sụp thì những tàn dư tác hại sẽ bao trùm khắp tràn
và chận nghẽn trong một thời gian những những đường
mạch thương mại của nước đó. Có ai mà lại không thấy
được rằng khi sự xáo trộn toàn diện xảy ra thì Sài Gòn
chính là một bến cảng an toàn của người Âu Châu trú
ẩn an toàn và được xử dụng như là địa điểm để tiếp nhận
cứu vớt những suy sụp do sự xáo trộn đó gây ra và cũng
là nơi để tăng tiến những gì mà kẻ khác bị tiêu mất.
Khi đã giao thương được với lục địa Trung quốc thì một
thị trường tiêu thụ hầu như là có một không hai sẽ được
mở ra ngay và sự buôn bán trong thị trường nầy nhất
định sẽ lên tới những mức tỷ lệ khó thể lường đoán trước
được.
Sau cùng, khi đề cặp về những hạn chế cực đoan quá
mức của vùng đất Á Châu nầy đã từ lâu chống đối sự kết
nạp ảnh hưởng của người Âu châu thì hiện nay vẫn còn
có một đế quốc giàu có sung túc không thua gì Trung
Quốc: đó là nước Nhật Bản. Quốc gia nầy khăng khăng
chủ trương chính sách bế quan tỏa cảng từ xưa tới nay
nhưng bây giờ thì họ đang nghĩ tới việc giải tỏa chính
sách nầy để mở cửa khẩu tiếp nhận các nền thương nghiệp
và văn minh của Âu Châu. Một đoàn sứ thần của quốc gia
nầy trên bước đường hướng về phía Âu Châu hiện đang
tiếp xúc với Sài Gòn và nhất định là phải có kết quả.
Quá bị sửng sốt về tính cách nghiêm trọng của việc chiếm
hữu lãnh thổ và ảnh hưởng của người Pháp trên những
phần đất nầy, các sứ giả người Nhật đã hồi nhớ lại vào
một thời kỳ trước đây không lâu lắm đất nước của họ
đã để tâm tới tương lai thương mại của miền Nam Kỳ hạ
và đã từng manh nha thiết đặt những khu thuộc địa trên
phần đất nầy. Cũng có những dư luận đang bàn tán về
một ấn tượng thông thương đều đặng và trực tiếp sẽ được
mở ra trong một ngày nào đó giữa Nhật Bản và Nam Kỳ
hạ; điều nầy sẽ coi như là một phương cách nhanh chóng
chất và hữu hiệu nhất để du nhập vào thị trường tiêu
thụ Âu Châu những sản phẩm của người Nhật để tránh được
sự cạnh tranh với các thị trường hiện có tại Thượng
Hải và Hồng Kong.
Như vậy, về mặt kinh tế, nếu được xét một cách tổng
quát nơi vùng đất đang chiếm cứ thì vị thế tuyệt hảo
lãnh thổ thuộc địa của chúng ta sẽ biến Sài Gòn trở
thành một bến cảng có tầm cỡ hạng nhứt vùng Á Châu.
Cùng với sự phát triển Sài Gòn thành một trung tâm điểm
thương mại của Viễn Đông, chúng ta có thêm động lực
thúc đẩy sự giao lưu giữa Âu Châu và Trung Hoa do con
kinh đào Suez ở Trung Đông tạo rạ. Với công trình kinh
đào vĩ đại nầy, bến cảng Marseille của nước Pháp sẽ
là nơi quy tụ nền thương mại của các nước Đông phương
đồng thời cũng là địa điểm xuất phát sản phẩm của các
nước Tây phương tỏa ra trên các vùng biển Á Châu. Với
2 đầu cực là cảng Marseille và cảng Sài Gòn, tuyến đường
giao thương mênh mông nầy đi ngang qua các miền lãnh
thổ sung túc đứng vào hàng bậc nhứt trên thế giới, nối
liền màn lưới bưu chính giữa Bombay với Melbourne (Úc),
Calcutta với Manila, Batavia với Thượng Hải; trung điểm
của tuyến đường giao thông nầy là một vùng đất do tài
trí khéo léo của người Pháp tạo ra, đó là vùng con kinh
đào Suez ở Trung Đông.
Một này nào đó, người ta có thể khẳng định rằng, cờ
hiệu, cùng với nền công nghiệp, nền thương mại của nước
Pháp sẽ đạt được tới ưu thế vô song trên một thị trường
quan trọng nhất của hoàn vũ: thị trường của những quốc
gia trong vùng biển Trung Quốc; ngày đó tổ quốc của
chúng ta sẽ không còn gì để phải đố kỵ với các nước
có nền hàng hải và thương nghiệp hùng mạnh phát đạt
nhứt. Nước Pháp sẽ thực hiện một cách hoàn toàn lâu
đài huy hoàng ở phương Đông mà Dupleix đã mơ ước và
chính quyền của triều đình vua Louis XV đã hèn kém buông
trôi để cho một nước cạnh tranh với nước Pháp thủ lợi.
*
Tuy nhiên tôi phải ngừng nghĩ tới những ước mơ sáng
lạng nầy bởi vì giàn khung của những giấc mơ nầy hình
như đang sắp phải sụp đổ. Những tiếng kêu la giận dữ
mà tôi đã nhiều lần ám chỉ trong bài nghiên cứu nầy
không phải là không có căn bản xác thực. Một sự dự định
rút lui ra khỏi 3 tỉnh vừa mới được đưa ra ở triều đình
Huế và sứ thần của Pháp (Aubaret) thương thảo về việc
nầy đã đến nước Xiêm La (Thái Lan).
Tôi biết rằng dư luận ở Pháp đã tỏ ra chống đối những
cuộc hành quân viễn chinh; tuy nhiên, dư luận nầy mù
tịt về tình hình tổng quát xảy ra nơi các vùng lãnh
thổ hải ngoại cho nên chỉ biết đánh giá một cách vô
ý thức về tầm mức quan trọng vị thế của miền Nam Kỳ
hạ. Một vài diễn giả, nơi nghị viện, họ chỉ biết khư
khư đeo đuổi một cương lĩnh chính trị đã được ấn định
mà không cần bàn luận tới tầm mức quan trọng của Nam
Kỳ; tệ hơn nữa là có những bài viết trên những tờ báo
lớn đã lên án cuộc viễn chinh và dựa trên những sự kiện
sai lầm, những đánh giá thiên vị không khách quan để
bàn tán tranh luận. Một trong những tờ báo lớn nầy là
tờ La Patrie, vào năm 1864 đã đăng tin rằng Huế cách
Sài Gòn 60 cây số, rằng nhiệt độ ở Nam Kỳ hạ từ tháng
2 đến tháng 5 dương lịch không bao giờ lên quá mức 26o
bách phân. Nếu tờ báo nầy từng tiếp nhận được những
nguồn thông tin chính xác thì người ta ngạc nhiên ít
hơn về việc nó ủng hộ chủ trương di tản.
Miền Nam Kỳ hạ đã gây tốn hao tiền bạc rất nhiều -
tôi biết vậy. - Sẽ thâu hồi lại được sự tiêu hao đó
không? - Chắc chắn là không - Lại còn phải hao tốn thêm
nữa - tôi dám đoan chắc với mọi người rằng thuộc địa
của chúng ta từ nay có thể tự túc một mình. Số thâu
vào năm 1863 là 1 triệu 800 ngàn quan phật lăng (francs).
Dự thảo ngân sách năm 1864 là 3,012,719 quan phật lăng,
ngang bằng với các chi phí đặc biệt địa phương kể từ
lúc nầy. Và có điều lạ là các chi tiêu trong bản ngân
sách lại được dự trù quá lố trong khi mức thu nhập lại
được dự trù ít đi. Cứ xem xét từng chương mục của bản
ngân sách thì sẽ thấy. Nếu việc phát triển liên tục
không bị ngưng trệ vì một biến động nào đó thì có thể
xác định được số thu nhập cho năm 1865 sẽ là 5 triệu
quan phật lăng. Vậy thì hãy để cho thuộc địa của ta
có thời giờ làm sáng tỏ công việc trước khi đánh giá
một cách xác quyết. Người ta dự trù phải tốn 30 năm
cho xứ Algérie (thuộc Bắc Phi Châu) để có thể đòi hỏi
máu xương, vàng bạc của xứ nầy vậy mà lại không cho
miền Nam Kỳ hạ được 3 năm hay sao nếu đem so sánh với
thuộc địa của ta ở phi châu? Xét giá trị về mặt thương
nghiệp thì Nam Kỳ hạ vượt trội. Về vị trí, thì ảnh hưởng
của Nam Kỳ hạ đối với một môi trường hoạt động xa xôi
lại không cần chú tâm cứu xét hay sao?
Có thể sẽ được trả lời rằng: cho dù có thể thanh thỏa
các kinh phí hiện nay cho những vùng địa phương của
Nam Kỳ mình thì không vì thế mà tổn phí dùng cho các
lực lượng quân sự thủy bộ tại Nam Kỳ được giảm bớt đi.
- Nói như vậy thì phải chăng người ta chối từ sự hậu
thuẫn của cơ sở quân sự được dùng để bảo vệ những quyền
lợi quan yếu của người Pháp? Phải chăng không cần phải
có những căn cứ hải quân để bảo vệ những sự phát triển
thương mãi non kém sao? Để phòng ngừa những biến cố
đột phát có thể xảy ra nơi vùng biển Trung Hoa, thì
việc có được trong tay những lực lượng chống lại ảnh
hưởng của những lực lượng thuộc nhiều quốc gia khác
trong vùng đó phải chăng không phải là một chính sách
lành mạnh?
Một dấu chỉ cho thấy giá trị và tương lai cho việc
chúng ta chiếm hữu miền Nam Kỳ là sự đánh giá của người
Anh Cát Lợi về sự chiếm hữu nầy. Không có cách nào sáng
tỏ hơn bằng cách nghe đối thủ đưa ra những lời phê phán
về sự chinh phục miền Nam Kỳ của chúng ta. Ngoài ra
còn có thể đọc những đầu đề do các thông tấn viên nơi
những vùng biển Trung Hoa đăng trên báo chí của người
Anh đã kích việc xâm chiếm Sài Gòn và tham vọng thả
cửa của người Pháp - Đó chỉ là những cái lỗ miệng nhai
đi nhai lại những lời kêu ca đơn lẻ giống nhau. Tuy
nhiên những lời kêu ca đó ít ra cũng làm cho chúng ta
phải mở mắt ra.
Tôi sẽ không nói tới nỗi đau khổ do sự tuyên bố tháo
lui khỏi Nam Kỳ gây ra cho những người vô vị lợi cùng
đang nhất trí tin tưởng vào tiền đồ thuộc địa của chúng
ta. Hối tiếc sẽ nhẹ bớt đi về những chết chóc đau thương
cùng với những mất mát nhạy cảm khi người ta nghĩ rằng
những điều đó làm cho tương lai được màu mỡ. Cay đắng
thay nếu bây giờ lại nghĩ rằng cứ để cho máu đổ lan
tràn vô sinh.
Tôi biết rằng nơi chính trường người ta không cảm nhận
mà chỉ biết lý sự. Vậy thì tôi sẽ thử dùng lý lẽ để
chống lại chủ trương di tản sai lầm tai hại nầy, và
dù rằng đã có những con số mà tôi đã nêu ra ở phần trên,
những con số mà tôi thách thức có sự tranh cải đúng
đắn bằng những chứng cớ tốt nhứt, tôi sẽ khảo sát mọi
chi tiết bản dự thảo sắp được đưa ra bàn luận nơi triều
đình Huế.
Trong bản dự thảo đó có điều khoản giao trả lại cho
người An Nam lãnh thổ đã bị xâm chiếm, ngoại trừ một
vài địa điểm mà Sài Gòn và Mỹ Tho 2 địa điểm chính cùng
với một vài vùng lân cận. Điều khoản bồi thường hàng
năm 3 triệu, điều khoản ấn định việc bảo hộ 6 tỉnh,
điều khoản ấn định về quyền tuyệt đối tự do đi lại cho
những kiều bào của chúng ta, điều khoản bắt buộc về
đặc quyền ngoại thương tại hai thành phố, tất cả những
điều khoản nầy nếu tôi không bị sai lầm thì đó chính
là những điều kiện chính yếu cho bước thối lui nầy (Tôi
không có ý khẳng định đây là ý nghĩa của những điều
khoản chính xác được viết ra trong bản dự ước cho tới
lúc nầy vẫn còn giữ kín; tuy vậy tôi tin chắc rằng từ
những sắc thái gần như vô nghĩa, tôi nêu ra tầm mức
và tinh thần của văn bản ngoại giao nầy).
Dù cho diễn tiến ngoại giao xảy ra thế nào đi chăng
nữa, thông thường chứa đựng nhiều điều lừa phỉnh, người
ta không nên tin tưởng một cách tuyệt đối vào giá trị
và tính cách chân thật của một bản hòa nghị được ký
kết với bất cứ một triều đình nào ở Đông phương. Dựng
ra được những điều khoản lừa dối trong bản hòa nghị
tức là họ đã thắng thế, và khi đã quyết định dứt khoát
để ký kết thì sẽ đi đến tình trạng dẫn giải gò ép bản
văn để thi hành một cách trái ngược hoàn toàn với tinh
thần của bản văn. Đó chính là những thắng lợi mà giới
sĩ phu và quan lại người An Nam nghĩ rằng họ có thể
có thu hái được.
Trước hết, liệu rằng hiện tình mới nầy sẽ đạt được
mục tiêu kinh tế như người ta đề xướng hay không ?
Tôi cho rằng không. - Những đường ranh giới cần được
bảo vệ sẽ toả rộng gắp ba hoặc bốn lần nếu so sánh với
việc bảo vệ những đường ranh giới của 6 tỉnh nếu 6 tỉnh
nầy do ta làm chủ.
Sự phân tán và tình trạng cô lập của các đồn bót gây
thêm tốn hao vì phải cung ứng tàu thuyền để phục dịch
cho các địa phương. Lợi tức thu hoạch trong lãnh thổ
của chúng ta vì thế sẽ bị giảm sút xuống ngang với định
mức bồi thường chiến phí hằng năm tức là sẽ ít hơn số
lợi tức thu nhập hiện nay. Người ta chỉ tiết kiệm được
số chi phí dùng cho việc điều hành cai trị dân bản xứ,
được ấn định là 721,594 đồng quan phật lăng mà hiện
nay mẩu quốc không còn phải gánh vát nữa.
Về mặt tài chánh, chúng ta không không được lợi lộc
gì mà còn sẽ bị thiệt thòi nhiều về mặt thương mại.
Sai lầm của những tác giả bản dự ước mới chính là điểm
họ cho rằng với sự trù tính mới mẻ trong bản dự ước
thì nền thương mại của Sài Gòn sẽ không thua gì nền
thương mại của toàn cõi Nam Kỳ hạ. Nghĩ như vậy là không
đếm xỉa gì đến bản chất của người dân bản xứ mà chúng
ta đang giao dịch. Mơ tưởng biến Sài Gòn thành một trung
tâm thương mại giống như Hồng Kong là tự tạo cho mình
những sai lầm nghiêm trọng trong tương lai. Những điều
gì hợp với ý hướng hiển nhiên chuyên hành nghề thương
mại của người Hoa lại trở thành ảo tưởng viễn vong khắp
nơi trong nước An Nam, nơi mà những sáng kiến thương
mại đều bị vùi dập và những sự giao dịch đều do những
người cai trị hám của tham lam độc quyền nắm giữ. Vả
chăng, trước đây thì có thể thử mà không gây nguy hại
cho tương lai cho nên chỉ cần chiếm cứ Sài Gòn mà thôi,
nhưng ngày nay thì không còn có thể thử giống như thế
mà không phải hứng lấy những hậu quả khốc liệt nặng
nề. Ở vào thời kỳ đó, từ lúc khởi đầu cuộc chinh phục,
chúng ta có được một uy thế vang lừng để đối xử với
dân chúng quanh vùng và thu hút sản phẩm của họ về phía
ta; bây giờ thì chúng ta chỉ còn lại có một ít ảnh hưởng
nhỏ nhoi của một kẻ chinh phục đang rút lui dưới sự
nghi kỵ và hận ghét của số dân chúng bị ta bỏ rơi.
Hãy hình dung việc để cho chế độ của người An Nam khai
mạc trở lại trong 3 tỉnh của chúng ta, hãy suy xét lại
về đIều lợi mà chính quyền của triều đình Huế sẽ có
được để tách rời chúng ta ra khỏi mọi sự giao thương
và mọi phương tiện thuận lợi hầu đạt tới kết quả như
hiện tại với tình trạng bất động của dân chúng vì họ
run sợ phải gánh lấy một phản ứng khủng khiếp, và người
ta sẽ tin rằng vì được một khởi xướng nhượng bộ rộng
lớn cổ xúy, chính quyền đó chỉ cần làm sao để có được
một cuộc di tản toàn diện bằng cách làm cho chúng ta
chán nản với những mưu toan thương mại vô ích của chúng
ta, chán nản vì khoảng trống sâu thẩm mà họ sẽ biết
cách gây ra chung quanh chúng ta. Sẽ vô ích để mà viện
dẫn bản hòa ước: sự khôn khéo của quan chức triều đình
Huế sẽ thách thức chúng ta trưng dẫn bằng chứng mọi
sự vi phạm trực tiếp bản hòa ước. Vả chăng, tôi lập
lại lần nữa, có còn được một tình cảm nào khác ngoài
tình cảm ghê tởm mà chúng ta sẽ gây ra cho đám dân chúng
đã theo về với chúng ta vì họ đã tin tưởng vào những
hứa hẹn long trọng của chúng ta, những hứa hẹn chỉ được
một sớm một chiều để rồi bị lờ quên và phản phúc? Uy
tín của chúng ta còn gì dưới mắt họ để nhờ đó mà họ
có thể hóa giải những mối đe dọa bí ẩn cùng với những
sự báo thù hữu hiệu của những hàng quan lại triều đình
cai trị của họ? Chúng ta sẽ chỉ còn thống trị hai tỉnh
Sài Gòn, Mỹ Tho hoang vắng như sa mạc cùng với các đồn
bót đặt trọng pháo, chúng ta sẽ có những được những
xưởng quân giới tuyệt hảo nhưng chúng ta đừng mông có
được những bến thương cảng và chúng ta sẽ phải đưa gạo
thóc cần thiết từ nước Pháp đến để nuôi sống chúng ta.
Bất hạnh thay, tôi không lý luận bằng cách dựa trên
những giả thuyết nhưng là đặt trên những sự kiện thực
tế. Vào năm 1860, khi chiếm đóng Sài Gòn một cách giới
hạn thì ngày trước ở đây có 40 ngôi làng nhưng chỉ còn
lại có một làng người gia tô giáo sau khi Sài Gòn bị
chiếm đóng. Kiểu thống trị bấp bênh của chúng ta cũng
đủ để người dân An Nam chạy trốn khỏi thành phố Sài
Gòn. Vào lúc chúng ta đã chiếm cứ tỉnh Vĩnh Long thì
sự giao dịch thương mại lớn lao trước đây được thực
hiện tại một vị trí cách thành phố Sài Gòn 10 dặm để
chở sang thị trường Jadée (sic!) (Ghi chú của người
dịch: có thể F.Garnier muốn nói tới thị trường Trung
Quốc chăng? Vào thời nầy, Trung Quốc có lẽ được coi
như là nơi sản xuất nhiều loại đá quý gọi là Jade/ ngọc
thạch cho nên F.Garnier gọi nước nầy là Jadée ?) thì
nay đã chuyển hướng sang một nhánh sông khác hướng về
phía tỉnh Châu Đốc và kể từ lúc đó nơi nầy trở thành
quan trọng gắp đôi.
Bất cứ lúc nào, ở khắp nơi, phương thức cô lập được
xử dụng để chống lại chúng ta.
Ngay cả khi chấp nhận rằng cứ kiên trì rồi những hoạt
động trung gian của người Hoa cũng sẽ tạo được một nguồn
giao lưu lúa gạo đến Sài Gòn thì người ta vẫn phải nhớ
tới những thành quả mà các quan lại mục nát của triều
đình sở tại thu nhập được và con số 3 triệu đồng phật
lăng ($3,700,000 frc) mà tôi đã nêu lên ở trên (trang
1876) như là tổng số mức nhập và xuất của cả nước An
Nam riêng trong năm 1841. Ngoài ra, nhu cầu thương mại
sẽ dẫn đưa chúng ta đến tình trạng nguy hại là cứ nhắm
mắt làm ngơ những sự lấn lướt của các quan lại triều
đình và thừa nhận sự hiện diện của họ. Cứ mỗi chuyến
hàng gạo thóc mong đợi được tải đến thì chúng ta lại
phải phó thác hoàn toàn vào sự ân huệ của họ, rồi thì
từ nhân nhượng nầy đến nhân nhượng khác, chúng ta sẽ
không tránh khỏi tuột dốc rơi xuống hàng thấp kém ô
nhục mà người Anh và người Bồ Đào Nha đã từng phải gánh
chịu lâu dài khi đối đầu với nước Trung Hoa chỉ vì họ
muốn sự giao thương của nước họ với nước nầy không bị
gián đoạn.(Chú thích của F.Garnier: tham chiếu vấn đề
nầy trong bài La Question de Chine, đăng trong tập chí
Revue des Deux Mondes, số tháng 6 năm 1857 và bài viết
Le Voyage en Chine của tác giả M. Jurien de la Gravière.
Trong bài kể chuyện nầy có đầy dẫy những điều ô nhục
khó thể tưởng tượng mà hai nước đó phải gánh nhận, cho
tới khi người Anh quyết định gây ra cuộc chiến tranh
đầy tiếng tâm vào năm 1840. Ngoài ra còn phải nhớ lại
vụ ám sát thống đốc Amaral ở Macao vào năm 1848 mà hầu
như không bị trừng phạt).
Mặt khác, xét trên một mức độ cao hơn, một nước như
nước Pháp khi đặt gót chân lên một vùng đất xa lạ và
man dã thì có cần phải nhắm vào một mục tiêu duy nhứt
là nới rộng nền thương mại của mình và hài lòng với
động cơ duy nhứt là miếng mồi hám lợi? _ Một nước Pháp
nổi tiếng là hào hiệp đối với các nước tiến bộ ở Âu
Châu và có những ý tưởng được truyền bá khắp thế giới,
đã được thượng đế giao cho một trọng trách cao vọng
hơn, trọng trách khai phóng các dân tộc để lôi kéo họ
ra khỏi vòng nô lệ u mê tăm tối và tai ách chuyên chế.
Có lý nào nước Pháp tự tay mình dập tắt nguồn ánh sáng
văn minh mang đến cho người An Nam đang bị chìm đắm
trong bóng tối mù mịt ? Có lý nào nước Pháp lại tai
điếc mắt ngơ đối với những thống khổ triền miên của
họ? Nước Pháp phải bôi bỏ cái phần đẹp nhứt trong tác
phẩm của mình hay sao? Để rồi phải gánh chịu một tình
trạng khốc hại do chính mình sẽ gây ra cho mình, thay
vì tạo dựng lại khối dân chúng, thì lại theo gương người
Anh dùng võ lực để ép buộc dân chúng (Trung Hoa) phải
nuốt độc dược nha phiến?
Ở đây người ta thấy rằng phẩm giá và quyền lợi của
chúng ta hài hòa với nhau và đẩy lùi mọi ý nghĩ hạ giảm
uy thế của chúng ta ở An Nam.
Không những ảnh hưởng và uy thế của ta ở Nam Kỳ hạ
bị tan biến luôn sau khi phương sách nầy (di tản) được
áp dụng, một phương sách khiến cho dân cư sẽ bỏ di hết,
chúng ta lại còn phải gánh chịu từ các triều đình lân
cận (của các triều đình ở Âu Châu) những tai tiếng thất
trận và giá trị chúng ta bị hạ thấp.Chúng ta đang giao
tiếp với các chủng tộc Á châu chỉ biết phô trương bạo
lực và như vậy thì để đối lại với những cách phô trương
như thế mà lại dùng những tính toán ngoại giao để đối
xử tế nhị thì thật là xuẩn động. Để có một bằng chứng
về điều nầy, tôi xin nêu ra câu chất vấn của vua nước
Cambodge (Cao Miên) khi biết được ta đầu hàng chịu giao
nạp trở lại tỉnh Vĩnh Long cho người An Nam, hỏi rằng
người Pháp chúng ta đã thất bại ở chỗ nào và ai lại
có thể lấy một loại quyết đinh triệt thoái kiểu như
vậy. Cũng vậy, người ta thấy sự tổn hại gì đã xảy đến
cho uy tính của đạo binh của chúng ta khi tin tức di
tản được loan truyền đến khắp các triều đình vương quốc
ở Viễn Đông. Có thể là chúng ta đã chiếm giữ 3 tỉnh
vào một thời điểm chưa thích hợp và đầy xáo trộn; nhưng
sau đó nhất định sẽ là một lỗi lầm to tát nếu ta bỏ
rơi 3 tỉnh đó.
Sau cùng, tôi giả định xem nếu bước thụt lùi nầy trở
thành hiệu lực thì số dân chúng người An Nam đã một
thời đã theo về với người Pháp, một thời tin tưởng vào
lời hứa và sự che chở của người Pháp, họ sẽ ra sao khi
bị trả về cho những chủ nhân cũ của họ. Với những việc
đã làm của mình liệu rằng số dân chúng này có thể tránh
khỏi một sự trừng phạt nào khác khủng khiếp hơn là hình
phạt phân thây xẻ thịt hay không? Người ta có thể hình
dung được hay không những cuộc trả thủ sẽ áp dụng không
riêng gì cho các xã trưởng, lính mã tà (Ghi chú: Mã
tà hay cảnh vệ do người Pháp tuyển và huấn luyện), những
nhân công bản xứ làm việc cho chúng ta mà cũng áp dụng
luôn cho tất cả số dân cư trong các làng mạc bị nghi
ngờ là đầu phục chúng ta một cách dễ dàng hoặc tỏ ra
quá trung thành với người Pháp?
Chúng ta tự động trao cho họ sự bảo đảm hão huyền trong
bản hòa ước hay sao?
Ngoài sự đối đầu với những hăm dọa, những sự khiêu
khích nặng nề, những hành động ám sát gây ra cho những
ai muốn mang hàng hóa vào Sài Gòn thì còn có thêm cả
một đoàn ngũ gớm ghiếc những kẻ phản kháng, trả thù
cá nhân, thanh toán chính trị cùng với các hành vi tịch
thu tài sản, cảnh huống khốn cùng và nỗi kinh hoàng
khó tả kèm theo. Xứ nầy đã từng chịu khổ đau cùng cực
nay được chúng ta lại sẽ giao cho họ một tình trạng
vô vọng tồi tệ đến mức mà người An Nam phải thốt lên
rằng thà chết còn hơn; chúng ta sẽ gây ra cho xứ nầy
một vết thương không bao giờ có thể chữa lành được.
- Và cớ sự xảy ra như vậy chỉ vì xứ nầy đà mù quáng
tin tưởng vào một lời hứa hẹn của nước Pháp!
Người ta sẽ thấy thế nào khi dòng máu đào nầy tuông
rơi lên đầu của chúng ta? Đợi cho đến khi đó thì sẽ
tìm một viên thống đốc người Pháp trơ lì để trợ giúp
cho những cảnh hành quyết đó hay sao?
Phần tôi thì lại không nghĩ như vậy.
Sẽ đến lúc mà sự phẫn nộ sẽ đầy tràn và phá vỡ mọi
bờ ngăn chận do các nhà ngoại giao khôn ngoan đã dựng
lên.
Người ta sẽ nhận biết được vị thế phụ thuộc, con đường
cụt không lối thoát ở tại nơi mà người ta sẽ được đặt
vào và rồi người ta sẽ đòi lấy lại hết những gì mà người
ta đã nhân nhượng. Nhưng lúc đó thì đã quá trễ: cái
lỗi di tản là một trong những trong những lỗi lầm không
có cái gì đền bù. Dân chúng một lần bị lừa gạt tàn nhẫn
sẽ không còn để cho mình bị lừa gạt như thế một lần
thứ nhì và rồi thì dân cư khắp nơi trên cái xứ sở tươi
tốt phì nhiêu nầy sẽ trở thành hoang vắng ngay trước
trước khi bước chân chúng ta đặt tới. Một lần bất tín
thì không bao giờ có thể tạo lại được niềm tin, và tới
chừng đó cho dù chúng ta có thành thật cách mấy đi chăng
nữa thì thì lời nói của chúng ta vẫn bị nghi ngờ: những
lời nói không còn có thể thuyết phục được ai.
Cũng vậy, nhờ vào một sự cảm nhận may mắn và phong
phú, sau khi chúng ta đã đã chiếm được một vị thế kính
phục trên lục địa Á Châu, sau khi chúng ta đã có một
lúc thấy được một tương lai tươi đẹp do chính sách thuộc
địa tạo ra cho chúng ta cùng với một đế quốc mới ở Đông
Ấn phát sinh dưới bóng quân kỳ của chúng ta thì nay
chỉ vì một giờ mất kiên nhẫn, vì một sự khủng hoảng
nhất thời, chúng ta lại sắp phải hy sinh tất cả, phải
tự ý rút lui từ bỏ mà không hy vọng gì quay trở lại
để nhìn thấy ảnh hưởng và nền thương mại của nước Pháp
trong vùng biển Trung Quốc được vung trồng từ những
vùng đất nghèo mạc khô đét cổ xưa.
Nếu cho rằng đừng hy vọng gì chính phủ khi hiểu rõ
tình thế sẽ trở về giải pháp đã được quyết định (hòa
ước 1862) thì đây là một ý tưởng rất nản lòng. Tuy nhiên,
chính phủ phải hành động một cách khẩn cấp để sự tai
hại do chính phủ tạo ra không trở thành nghiêm trọng
hơn. Cứ mỗi tháng trôi qua trong tình trạng vô định
thì tương đương với một năm mất mát cho chính sách thuộc
địa. Các ngành kinh doanh dự trù đã được giao trả lại,
các thử nghiệm nông nghiệp đã bị đình trệ, cư dân quá
lo âu rời xa chúng ta. Vậy thì hãy đưa ra một sự cải
chính vang dội để làm yên lòng quần chúng, để tạo ra
một xung lực mới cho nền móng vừa mới chớm nở và hãy
để cho mọi phạm vi nào cho nền móng vừa mới chớm nở
và hãy để cho mọi phạm vi nào có tích cách quyết định
được cứu xét kỹ lưỡng khiến cho họ có thể an tâm.
Sài Gòn, ngày 19 tháng 4 năm 1864
Câu hỏi đặt ra là F.Garnier có hay không có tạo ảnh
hưởng lên quyết định của chính phủ Pháp về những đường
lối chính sách mà họ áp đặt trên các vùng lãnh thổ do
đoàn quân xâm lược của họ chiếm đóng ở Nam Kỳ?
Một bài viết gần đây đăng trên mạng lưới điện tử Internet:
http://www.netmarine.net/bat/batral/fgarnier/celebre.htm
nơi bản mục lục phần HISTOIRE ET PATRIMOINE đã tôn vinh
Francis Garnier như sau:
Depuis un siècle, la Marine nationale baptise régulièrement
l'une des ses unités du nom de cet officier, rendant
ainsi hommage à son courage et à son ardeur à porter
à l'autre bout du monde les couleurs de la France.
Voici bientôt cent dix ans, le 1er décembre 1873, qu'il
tomba au terme d'un combat héroïque sous les lances
des "Pavillons Noirs" en défendant la citadelle
de Hanoï.
Mais qui était cet homme, qui avec le Commandant Doudart
de Lagrée fut l'un des moteurs de la mission française
de 1866 en Extrême-Orient, mission marquant le début
de la présence coloniale de notre pays dans ce qui devait
devenir l'Indochine.
C'est à Saint-Etienne le 25 juillet 1835 qu'il naît.
Après ses études au lycée de Montpellier, il est admis
à l'Ecole Navale en 1855. Une première campagne l'emmène
vers les mers du sud, puis il s'aventure en 1859 sur
le Duperré qui part pour la Chine. C'est au cours de
cette traversée qu'il se jette à l'eau en pleine nuit
pour sauver un camarade emporté par une lame. Il a vingt-et-un
ans avec le grade d'enseigne de vaisseau lorsqu'il découvre
la Chine, pays qui ne cessera plus de le fasciner. Sous
les ordres de l'amiral Charner, il participe à la prise
de Pékin et au sac du Palais d'Eté par les troupes franco-britanniques.
En 1863, il rentre dans le corps de l'Inspection des
Affaires indigènes. Il est nommé administrateur à Cholon,
ville proche de Saïgon. Le contact et la richesse de
la civilisation chinoise le passionnent et c'est à cette
époque qu'il publie ses premiers ouvrages documentaires
: "La Cochinchine" et "De la colonisation
de la Cochinchine" où apparaît l'idée de l'exploration
du Mekong au cours encore inconnu.
Cette expédition qui devenait une réalité, part de
Saïgon le 5 juin 1866 sous les ordres du Commandant
Doudart de Lagrée ; Francis Garnier en est le second.
La mission a trois buts : scientifique, politique et
diplomatique. En novembre 1867, une révolte locale oblige
Francis Garnier à s'écarter du Mékong avec une partie
de sa troupe, laissant en arrière Doudart de Lagrée,
malade. Il explore inlassablement toute la région. Au
retour, il apprend la mort de son supérieur et devient
alors le Commandant de l'expédition qui atteint la vallée
du Yang-Tsé-Kiang puis la redescend jusqu'à Shangaï
avant de regagner Saïgon le 29 juin 1868.
Au terme de cette expédition, il rentre en France,
est affecté au "dépot des cartes et plans de la
Marine" et y rédige le rapport de sa campagne en
Cochinchine. Il devient membre de la société géographique
où il fait cet éloge de son chef disparu : "L'exploration
du Mékong, que le Commandant de Lagrée avait comprise
si grande, et qu'il a réalisée si complète, restera
sienne; ses glorieux et féconds résultats sont à jamais
inséparables du nom d'Ernest Doudart de Lagrée."
En 1871, Francis Garnier reçoit la Médaille d'Honneur
du Congrès de Géographie, médaille qu'il partage avec
Livingstone.
Pendant la guerre de 1870, il reste à Paris comme Chef
d'Etat-Major de l'Amiral Mequet. Ayant remis en 1872
son rapport de campagne, il sollicite un congé de trois
ans sans solde afin de repartir à titre personnel pour
la Chine.
Il quitte donc la France avec sa femme, qu'il a épousée
en 1870, et s'installe à Shangaï. Son but est de poursuivre
l'oeuvre géographique de l'expédition de Doudart de
Lagrée, de reconnaître jusqu'au Tibet le cours supérieur
du Mékong mais aussi d'essayer de jouer le médiateur
entre le pouvoir impérial chinois et les rebelles musulmans
qui épuisent le pays.
Un officier en congé à la tête de 200 hommes !
C'est en solitaire qu'il explore ces régions pendant
six mois, avant d'être rappelé par l'Amiral Dupré, gouverneur
de la Cochinchine. Celui-ci lui donne les pleins pouvoirs
pour régler au Tonkin un différend qui oppose quelques
colons français aux rebelles. Francis Garnier, officier
en congé, se voit confier le commandement d'une troupe
de deux cent hommes et quatre canonnières. Il arrive
à Hanoï en novembre 1873 et, ne parvenant pas à régler
par la voie diplomatique le conflit, s'empare sans coup
férir de la citadelle puis envoie des détachements occuper
les principales places du delta.
Le 21 décembre, alors que les négociations étaient
sur le point d'aboutir, la citadelle est attaquée par
les "Pavillons Noirs". Les Français résistent
courageusement aux assaillants et les obligent à se
replier. C'est alors que Francis Garnier sort de la
citadelle avec plusieurs hommes et un canon à la poursuite
de l'ennemi. A six cent mètres de là, il abandonne le
canon et continue sa course avec trois hommes. En tentant
de passer une digue dans les rizières, il trébuche et,
se trouvant isolé, est mortellement frappé par les "Pavillons
Noirs". Ne le voyant plus, ses compagnons se rapprochent
et trouvent son corps décapité. Sa dépouille est ramenée
à Saïgon où il est inhumé en 1875 aux côtés de Doudart
de Lagrée.
Telle fut la vie de ce pionnier de la présence française
en Asie. Par le rôle essentiel qu'il joua dans le succès
de la mission d'exploration du Mékong, par les réflexions
que lui inspirèrent ses voyages en Chine et sa parfaite
connaissance de l'Empire du Milieu, par les oeuvres
qu'il publia au retour de ses expéditions, Francis Garnier
demeure l'un des artisans de l'ouverture de l'Asie au
monde occidental.
Le retour des cendres de Francis Garnier
Dans la nuit du 1er au 2 mars 1983, le corps de Francis
Garnier, après avoir été exhumé (ainsi que celui de
Doudart de Lagrée) furent incinérés. Les urnes furent
remis au consul général de France à **** ville le 2
mars 1983. C'est la Jeanne d'Arc, commandée alors par
le capitaine de vaisseau Merveilleux du Vignaux, qui
se chargea de ramener en France les cendres des deux
explorateurs.
Dépôt des cendres de Francis Garnier
Le jeudi 23 avril 1987, une brève mais émouvante cérémonie
au cours de laquelle l'urne contenant les cendres de
Francis Garnier était confiée par le capitaine de vaisseau
(H) Besancon, descendant de l'illustre marin, à la ville
de Paris pour être enchassée dans le socle d'un monument,
situé à la rencontre du boulevard Saint-Michel et de
la rue d'Assas.
Etaient présents notamment les membres de la famille
de Francis Garnier dont le capitaine de corvette Besancon,
ancien commandant de l'aviso Premier maître L'Her, le
vice-amiral d'escadre Denis représentant le Chef d'Etat-Major
de la Marine, le capitaine de vaisseau Cottin Commandant
la Marine à Paris. La section d'honneur de la Marine
à Paris rendait les honneurs. Monsieur Didier Bariani,
adjoint au maire de Paris, Secrétaire d'Etat auprès
du Ministre des Affaires Etrangère et représentant Monsieur
Jacques Chirac présidait cette cérémonie.
Les cendres de Francis Garnier ont désormais quitté
la nuit indochinoise pour retrouver le sol de Paris.
Tạm dịch:
Từ một thế kỷ qua, Hải Quân Quốc Gia vẫn tiếp tục làm
phép rửa cho một trong các đơn vị hải quân của mình
bằng cách lấy tên của viên sĩ quan nầy đặt tên cho,
khiến cho sự vinh danh về lòng can trường đầy nhiệt
quyết của ông đước loan truyền khắp cùng thế giới dưới
lá cờ của nước Pháp.
Đến nay, đã gần 110 năm, kể từ ngày 1 tháng 12 năm
1873, ngày ông ngả xuống dưới những ngọn giáo nhọn của
Giặc Cờ Đen để chống giữ thành Hà Nội.
Cũng chính ông đã cùng với thiếu tá Hải quân Doudart
de Lagrée kết tạo thành một trong những động cơ thúc
đẩy cho bộ công tác của Pháp tại Viễn Đông, một công
tác đánh dấu bước khởi đầu của sự hiện diện chính sách
thuộc địa của đất nước chúng ta tại một nơi mà sau đó
trở thành bán đảo Đông Ấn (Đông Dương).
Ông sinh ra tại Saint Étienne ngày 25 tháng 7 năm 1835.
Sau khi tốt nghiệp trung học từ một trường trung học
ở Motpellier, ông được tuyển nhập vào trường Hải Quân
vào năm 1855. Chuyến công tác đầu tiên trong ngành hải
quân đã đưa ông đi vào các vùng biển ở phía Nam và tiếp
theo là theo tàu Duperré vào năm 1859 để thám hiển nước
Trung Hoa. Trong cuộc hành trình mạo hiểm nầy, ông đã
nhảy xuống biển sâu trong màn đêm tối đen để cứu mạng
sống người đồng đội bị một đợt sóng lớn phủ chụp lên
tàu và cuốn lôi anh ta xuống biển. Vào lúc hiểu biết
được nước Trung Hoa, ông là một sĩ quan hải quân 21
tuổi và Trung Hoa là một nước không ngừng tạo cho ông
thích thú. Theo lệnh của đề đốc Charner, ông tham dự
chiến dịch đánh chiếm thành Bắc Kinh và cung điện Mùa
Hạ của Trung Quốc do liên quân viễn chinh Anh-Pháp chủ
động.
Cuộc Thám hiểm dòng sông Mê-kong lần thư nhất
Năm 1863, ông được chọn nhận vào cơ quan Thanh Tra
Bản Xứ Sự Vụ. Ông được bổ nhiệm vào chứ vụ Thị trưởng
thành phố Chớ Lớn, một thành phố tiếp cận với Sài Gòn.
Ông đã say mê khi tiếp xúc với người Trung Hoa và hiểu
biết được về nền văn hóa phong phú của người họ và chính
vào thời điểm nầy ông đã phát hành 2 tác phẩm tham khảo
của ông "Xứ Nam Kỳ" và "Chính Sách Thuộc
Địa ở Nam Kỳ" và ý nghĩ thám hiểm dòng sông Mê-Kong
hoang dã chưa từng được ai biết tới đã được tác giả
đề cặp trong hai tác phẩm đó.
Ý nghĩ về một cuộc thám hiểm như thế đã trở thành thực
tế, đoàn thám hiểm dưới quyền chỉ huy của thiếu tá hải
quân Doudart de Lagrée đã khởi hành từ Sài Gòn vào ngày
5 tháng 6 năm 1866; trong đoàn thám hiểm nầy Francis
Garnier là chỉ huy phó. Đoàn thám hiểm có 3 mục tiêu
nghiên cứu: khoa học, Chính trị và ngoại giao. Tháng
11 năm 1867, vì một cuộc nổi loạn địa phương khiến cho
Francis Garnier phải tránh xa vùng sông Mê-Kong với
một nhóm nhỏ của đoàn thám hiểm, còn Doudart de Lagrée
đang bị nhiễm bệnh thì phải bỏ lại phía sau. F.Garnier
thám hiểm không biết mệt mỏi cả vùng. Khi quay trở lại
thì ông hay tin rằng người thượng cấp của ông đã chết
và ông trở thành đoàn trưởng chỉ huy đoàn thám hiểm
thám sát cả một vùng thung lũng sông Dương Tử (hay Thanh
Giang) rồi lại xuôi dòng đến vùng Thượng Hải trước khi
trở về Sài Gòn vào ngày 29 tháng 6 năm 1968.
Theo quy định về cuộc thám hiểm nầy thì O6ng phải trở
về Pháp và được bổ nhiệm đến "căn cứ tồn trữ các
bản đồ địa dư và bản vẽ hàng hải " để soạn thảo
bản phúc trình về chiến dịch thám hiểm của ông ở Nam
Kỳ. Ông trở thành một hội viên của Hội Địa Dư và ông
đã tuyên xưng với hội nầy về sự hy sinh của người thượng
cấp của ông như sau: "Cuộc thám hiểm dòng sông
Mê-Kong mà thiếu tá de Lagrée đã thấu suốt một cách
tường tận và dã thực hiện được một các vẹn toàn luôn
luôn vẫn là phần công trạng của riêng thiếu tá; những
thành quả vẻ vang và và sinh sôi do ông tạo ra sẽ luôn
luôn dính liền với danh xưng Ernest Doudart de Lagrée".
Năm 1871, F.Garnier được ban thưởng huy chương danh
dự bội tinh của Hiệp Hội Địa Dư cùng với Linvingstone.
Trong trận chiến 1870 ở Pháp, ông ở lại Paris giữ chức
vụ tham mưu trưởng dưới quyền của đề đốc Mequet. Sau
khi hoàn tất bản phúc trình của mình, ông được nghỉ
giả hạn 3 tháng không được trả lương để trở qua Trung
Quốc với tính cách cá nhân.
Ông rời nước Pháp với vợ cưới từ năm 1870 và đế ở Thượng
Hảị Mục tiêu của ông là tiếp tục nghiên cứu về địa dư
công trình thám hiểm của Doudart de Lagrée, để thám
sát lên đến vùng Tầy Tạng nơi thượng nguồn phát nguyên
dòng sông Mê-kong đồng thời cố gắng đóng vai trò trung
gian hoà giải giữa các quyền lực của hoàng triều Trung
Quốc với những lực lượng nổi dậy người Hồi Giáo đang
làm kiệt huệ đất nước.
Viên sĩ quan nghỉ phép không lương
cầm đầu chỉ huy 200 binh sĩ!
Ông đã đơn độc tiến hành công tác thám sát những vùng
nầy trong vòng 6 tháng trước khi được Thống đốc Nam
Kỳ đề đốc Dupré triệu vời. Viên Thống đốc nầy đã trao
toàn quyền quyết định cho F.Garnier ra Bắc kỳ để giải
quyết việc khiếu nại liên quan tới vài vụ tranh chấp
giữa một vài kiều dân người Pháp với bọn nổi loạn. Sĩ
quan đang nghỉ phép không lương Francis Garnier được
giao phó nhiệm vụ chỉ huy một đội binh 200 người và
4 pháo hạm. Ông đến Hà Nội vào tháng 11 năm 1873 và,
không cần dùng đến đương lối ngoại giao để giải quyết
sự tranh chấp, ông tự ý tiến quân đánh chiếm thành (Hà
Nội) rồi tung quân của ông đánh chiếm nhiều khu vực
chính yếu thuộc vùng châu thổ.
Ngày 21 tháng 12, trong khi cuộc thương thảo sắp khởi
đầu thì thành Hà Nội bị Giặc Cờ Đen tấn công. Quân binh
Pháp chống trả mãnh liệt và đẩy lui được giặc. Chính
vào lúc đó, Francis Garnier đem một số quân binh cùng
với một khẩu đại pháo ra khỏi thành để truy kích địch
quân. Khi ra khỏi thành khoảng 600 mét, ông bỏ lại khẩu
đại pháo để tự mình cùng với 3 binh sĩ truy kích quân
giặc. Khi đi ngang qua một đầm lầy ruộng lúa, ông bị
lún sình kẹt lại một mình và bị bọn Giặc Cờ Đen đâm
chết. Không thấy ông quay về thành, đồng đội của ông
đi tìm và gặp thấy thân xác cụt đầu của ông . Xác của
ông được mang về Sài Gòn và được chôn cất vào năm 1875
bên cạnh ngôi mộ của Doudart de Lagrée.
Đó là cuộc đời của một nhà thám hiểm tiền phong tạo
lập sự hiện diện của người Pháp trên vùng đất Á Châu.
Với vai trò đóng góp của ông trong cuộc thám hiểm dòng
sông Mê-kong, với những phản ảnh của ông về những chuyến
du hành ở Trung Quốc và tầm hiểu biết sâu rộng của ông
về đất nước nầy cùng với với những tác phẩm của ông
kể lại những chuyến thám hiểm, Francis Garnier luôn
luôn được xem như là một trong các nhà thợ kiến tạo
lối đi vào vùng Á Châu cho người tây phương.
Vào đêm 1 và 2 tháng 3 năm 1983, hài cốt của Francis
Garnier được bốc mộ và hỏa thiêu (cùng một thời điểm
hỏa thiêu hài cốt của Doudart de Lagrée). Hai hủ cốt
tro đã được Tổng Lãnh Pháp ở Sài Gòn tiếp nhận vào ngày
2 tháng 3 năm 1983. Tàu chiến Jeanne d'Arc do hạm trưởng
Merveileux du Vignaux đã đưa cốt tro của hai nhà thám
hiểm về Pháp.
An vị cốt tro của Francis Garnier
Vào ngày thứ năm 23 tháng 4 năm 1987, trong một buổi
lễ đơn sơ và cảm động. hủ đựng cốt tro của Francis Garnier
đã đực giao phó cho hạm truởng hộ tống hạm (H) Besancon,
con cháu nối dõi của người lính thủy vang danh, mang
đến thành phố Paris để được đặt an vị vào một tượng
đài kỷ niệm được xây cất tại ngả tư đại lộ Saint Michel
và đường d'Assas.
Hiện diện trong buổi lễ an vị, ngoài những người thân
thuộc trong gia tộc của Francis Garnier trong đó có
hạm trưởng hộ tống hạm Besancon, cựu thiếu tá hạm trưởng
chiến hạm thám báo Premier maître L' Her, phó đề đốc
đội tàu chiến Denis đại diện tham mưu trưởng Hải quân,
đại úy hạm trưởng tàu Cottin chỉ huy trưởng hải quân
vùng Paris. Một đội hải quân của vùng Paris dàn chào
danh dự . Ông phó thị trưởng thành phố Paris, ông tổng
trưởng bộ ngoại giao và đại diện của tổng thống nước
Pháp chủ trì buổi lễ an vị.
Cốt tro của Francis Garnier từ ngày đó đã rời bỏ màn
đêm Đông Dương để trở về với lòng đất của Paris.
Chương
29
Người Pháp và nước Pháp, kể từ thời Napoléon III đến
nay đều coi Francis Garnier như là một trong những người
vĩ đại đi tiên phong trong tiến trình phát triển chính
sách thuộc địa thực dân của họ trên các lãnh thổ hải ngoại
tại vùng Á Châu đặc biệt là ở Đông Dương. Trong khi mà
đoàn quân viễn chinh xâm lược của Pháp chỉ mới làm chủ
thực sự 2 thành phố lớn quan trọng ngang nhau, nằm kề
sát bên nhau là Sài Gòn và Chợ Lớn thì với vị thế là một
thị trưởng thành phố Chợ Lớn, tiếng nói của Francis Garnier
nhất định phải được chính quyền và dư luận quần chúng
ở Pháp đặc biệt quan tâm.
Sau thắng lợi ngoại giao ngoạn mục của đoàn sứ Đại
Nam do Phan Thanh Giản cầm đầu, hoàng đế Pháp Napoléon
III và chính phủ Pháp đã đồng ý mở một cuộc thương thảo
để ký kết với triều đình Huế một hòa ước mới. Nhóm quân
phiệt của bộ Hải quân Pháp cầm đầu là bộ trưởng Chasseloup
Laubat và Thống đốc kiêm tư lệnh lực lượng viễn chinh
xâm lưuợc Pháp ở Nam Kỳ hạ De La Grandière đã có những
thái độ và hành động chống đối chủ trương xét lại của
Napoléon III và chính phủ Pháp ở Paris và không đếm
xỉa gì tới sự hiện diện của đặc sứ Aubaret. Chính La
Grandière đã thúc hối bộ trưởng bộ Hải quân Chasseloup
Laubat qua các công hàm nầy đến công hàm khác để phản
đối chủ trương xét lại của chính phủ Pháp về vấn đề
Nam Kỳ hạ thuộc Pháp. Chính trong thời điểm và bối cảnh
như thế thì tiếng nói của Francis Garnier đã góp phần
không nhỏ cho việc xoay chuyển nếp suy tư và dư luận
quần chúng Pháp trong việc chôn vùi hòa ước Aubaret.
Tuy nhiên, chuyện gì đã xảy ra ở Paris trong khi có
những dư luận phát xuất từ Sài Gòn và từ Bộ Hải Quân
để chống đối chủ trương xét lại của chính phủ Pháp?
Theo quan điểm của người Pháp thì đây chỉ là một phản
ứng hiển tự nhiên đưa tới một hiệu quả hiển nhiên phải
có: Chasseloup Laubat vốn là một kẻ chủ trương mạnh
mẽ chính sách thực dân thuộc địa đã đã hợp với thủ tướng
nước Pháp vào lúc đó là Druyn de Lhuys- cùng một bản
chất như Chasseloup Laubat- cả hai đã quyết định đảo
ngược quan điểm lập trường trước đây không lâu của họ
khi họ cũng đã từng đồng ý về việc ký kết một hoà ước
mới để thay thế cho hòa ước Nhâm Tuất 1862. Họ đã ra
sức kêu gào Napoléon III đừng chú ý gì đến kết quả đàm
phán của đoàn sứ Phan Thanh Giản và yêu cầu Napoléon
II vô hiệu hóa những chỉ thị mà chính họ cũng có tham
dự vào để truyền đạt cho Aubaret trong sứ vụ thương
thảo với triều đình Huế. Thêm vào đó dư luận báo chí,
ngoại trừ tờ báo Les Débats, đã bắt đầu thấu rõ là vì
quyền lợi thực sự của nước Pháp đòi hỏi mà lãnh thổ
Nam Kỳ hạ phải tồn tại với người Pháp và do đó dư luận
báo chí ở Pháp đã tung ra những bài báo hưởng ứng và
cổ động cho chiến dịch tuyên truyền chính sách thuộc
địa của ho. Tại Viện Dân Biểu của Quốc Hội Pháp, những
người có thế lực như Dân biểu Thires và Lambrecht dù
không ngả theo nhưng cũng không tỏ ý chống đối. Hoàng
đế Napoléon III phân vân bất định về nhũng dư luận đồn
đãi đang bủa vây tứ phía. Và rồi, vào cuối năm 1863,
một ủy ban nghiên cứu dư luận được hình thành; mặt khác
Chasseloup Laubat cũng được chỉ thị lập một bản tường
trình sự việc trình lên Napoléon III. Ngày 6/6/1864,
hoàng đế Pháp liền chỉ thị cho thủ tướng Druyn de Lhuys
thông báo cho Chasseloup Laubat gởi công hàm cho Aubaret
yêu cầu chấm dứt những cuộc điều đình đang tiến hành
tại Huế. Tuy nhiên, vì cách biệt xa xôi, sự chuyển vận
thư từ chậm trễ cho nên khi công hàm của Chasseloup
Laubat đến tay Aubaret thì hiệp ước mới đã được ký kết.
Ngày 4/11/1864, Chasseloup Laubat gởi cho Napoléon III
một bản tường trình dài lưu ý Napoléon III trong khi
chờ đợi một tình thế sáng sủa hơn thì nên trở lại với
hòa ước Sài Gòn năm Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 dl năm1862
. Phiên hợp nội các ngày 10 tháng 11 năm 1864, chính
phủ Pháp quyết định không phê chuẩn hòa ước Aubaret
tức là xóa bỏ việc cho triều đình Huế chuộc lại bằng
tiền những lãnh thổ đã thuộc về người Pháp theo hoà
ước Nhâm Tuất 1862 hay nói khác đi người Pháp chỉ thừa
nhận hoà ước Nhâm Tuất 1862 là có hiệu lực chấp hành.
Quyết định nầy được gởi đi Sài Gòn vào ngày 29 tháng
1 năm 1865.
La Grandière viết thư cho triều đình Huế biết về quyết
định không phê chuẩn hoà ước Aubaret của chính phủ Pháp
và mặc dù có trình bày cho biết những lý do vì sao chính
phủ Pháp không chịu phê chuẩn hòa ước Aubaret nhưng
trên thực tế thì dù có giải thích hay không giải thích
thì tình thế vẫn không có gì khác biệt bởi vì ý đồ xâm
lược và bành trướng lãnh thổ thuộc địa của người Pháp
mới là lý do chính yếu cho mọi quyết định của họ trên
vùng lãnh thổ Nam Kỳ hạ. Câu hỏi đặt ra là: triều đình
Huế đã phản ứng ra sao khi hoà ước Aubaret không được
người Pháp chuẩn phê?
Chính sử nhà Nguyễn ghi chép về giai đoạn nầy như sau:
"Chủ súy nước Pháp là Gia-lăng-di-e , phái người
là Sơ Ba Lê đi tàu chạy máy bằng hơi nước đến đồn cửa
biển Thuận An, đưa thư xin vào chầu và tâu bày định
việc hòa ước.
Vua nói: Chủ súy nước Phú, phái người đến, để cố giữ
lời ước trước đó thôi; còn việc vào triều yết là việc
quan trọng, không nên khinh suất mà cho được. Sai bọn
Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, và Phạm Phú Thứ, vỗ
về úy lạo từ khước đi.
Ba Lê lại nói: lần nầy vẫn giữ ước cũ về năm nhâm tuất,
nên xuống dụ cho các tỉnh cấm việc mộ dân, và tiền bồi
thường đem đến giao ở tỉnh Bình Thuận; còn giấy tờ phỏng
độ làm hôm nào xong, sáng mai bao cho biết, thì trở
về, không dám ở lâu.
Bọn Thanh Giản đem việc tâu lên. Vua giao cho Phủ Tôn
nhân và đình thần bàn định, đều nói: vua tôi nước ấy,
đã không chịu cho chuộc lại 3 tỉnh; (Gia Định, Định
Tường, Biên Hòa), nếu lại viết quốc thư để hỏi thì họ
lại cố chấp lời nói trước, sợ có tổn đến quốc thể chăng?
Xin sai quan Thương bạc viết thư gửi cho đại học sĩ
nước ấy là Anh Đê Luy và chủ súy nước Phú ở Gia Định,
thông tin, phân trần cặn kẽ, họa có chút động lòng nghe
chăng, sau sẽ dần dần mưu tính. Vua nói: bọn khanh liệu
tính thế nào, chả nhẽ theo ước cũ mà nỡ bỏ đất cát 3
tỉnh ấy ư? Nên tính cho kỹ. Các đại thần lại nói: nghị
lớn về hòa ước từ trước tới nay vẫn giữ bí mật, chưa
có công bố, cho mọi người nghe biết nên người thôn quê
chưa biết, sinh ra ngờ vực. Xin do tỉnh thần 3 tỉnh:
Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, đem sao lục 12 điều
ước cũ, đưa đi treo dán, để hiểu bảo cho sĩ dân điều
biết, khiến đều yên ở làm ăn. Đến như việc thu xếp sau
nầy được thỏa thiện, nên xin thong thả sẽ bàn định.
Vua y cho. Nhân bảo bọn Thanh Giản rằng: ý người Phú
như thế, là muốn dân ta dứt tình với ta, cho nên dân
không nhịn được tức giận nhỏ ấy. Ta đã nhiều lần phái
người mật đi hiểu bảo, nhưng có 1, 2 kẻ hiếu sự, không
chịu nghe, đã để cho họ sinh ngờ, lại làm nhiễu hại
dân ta. Vã lại, họ đương cô chấp lời ước, để gây hiềm
khích, 3 tỉnh bị trơ trọi thì tất đến nguỵ Nay dứt tình
đi thì sợ lòng dân ngày thêm lìa tan, nếu không không
dứt tình tuyệt đi, thì việc chưa nên, mà lúc cấp khó
cứu, nên bất đắc dĩ phải dứt tình đi, để cho dân 3 tỉnh
ấy không còn trông nhờ vào đâu để bạo động nữa. Đó là
đoạn tuyệt để mà bảo vệ, để làm kế sau nầy nảy nở sẽ
mưu toan dần dần. Bèn xuống dụ cho tỉnh thần 3 tỉnh
sức khắp các hạt biết, có ai mượn tiếng là mộ nghĩa,
thì không được vào trong địa giới, mà các quan phủ,
huyện một khi trông thấy tức thời bắt ngay đem giải;
nhà dân có ai chứa chấp, cũng bắt tội như kẻ phạm."
(ĐNTLCB; đệ tứ kỷ; quyển XXXI; trang 162,163; bản dịch;
Hà Nội; 1974). (cũng xem: Sử Quốc Triều Chánh Biên Toát
Yếu; bản dịch năm 1925; sử quán triều Nguyễn; trang
345)
*
". . .phân trần cặn kẽ, họa có chút động lòng nghe
chăng, sau sẽ dần dần mưu tính". Uy quyền, sĩ diện
của một nước giờ đây tiêu tan để hạ mình phân trần kêu
ca, tuân hành các đòi hỏi của kẻ xâm lược để mong kẻ
địch thương xót mà xét lại chăng? Lần nầy chớ có đổ
tội cho ông Phan Thanh Giản là đã đầu hàng tuân lệnh
của giặc ngoại xâm. Ông Giản đã làm tròn bổn phận của
một nhà thương thuyết ngoại giao thêm một lần nữa nhưng
Tự Đức và đám người ăn hại ở triều đình Huế lại một
lần nữa làm hỏng sự và chỉ có một khác biệt nhỏ là lần
nầy không thấy Phan Thanh Giản bị hạ chức và mang thêm
một án trảm giam hậu như mấy lần trước!
Trước thái độ hèn yếu cam phận của triều đình Huế theo
chỉ thị của Tự Đức, quân xâm lược Pháp đã thây rõ uy
thế lấn lướt của mình và kể từ lúc nầy họ bắt đầu lên
mặt huênh hoang, độc đoán khi giao dịch với các cấp
chính quyền của nước Đại Nam từ quan binh cho đến người
lãnh đạo cao cấp nhất và tệ hại hơn nữa, họ liền nghĩ
ngay tới chuyện chiếm lãnh thêm các vùng đất phì nhiều
ở miền Tây Nam Kỳ .
Một lần nữa, Francis Garnier lại lên tiếng hối thúc
đoàn quân xâm lược Pháp tiến chiếm thêm 3 tỉnh miền
Tây của Đại Nam trong một bản tường trình của ông có
tựa đề là DE LA COLONISATION De La COCHINCHINE, viết
xong ngày 1 tháng 3 dl năm 1865 do nhà xuất bản Challamel
Ainé ấn hành ở Paris vào năm 1865.
Nơi trang 7, 8 và 9, F Garnier khởi đầu bài tường trình
của ông như sau:
Tạm dịch:
Kể từ lúc bác bỏ không thừa nhận những cuộc thương
lượng công khai với triều đình Huế vào tháng 7 năm 1864,
thuộc địa được đặt trở lại vào vào những điều kiện lãnh
thổ được thỏa thuận trong hòa ước ký kết ngày 6 tháng
6 năm 1862. Nếu đã dựa trên những nền tảng thuần lý,
không thể tranh cải để biến thành nguyên lý đẩy lùi
các tưởng làm suy giảm uy lực của chúng ta ở Nam Kỳ
thì người ta cũng phải chịu chấp nhận mọi hậu quả và
phải tạo được chiến thắng từ những hậu quả đó. Nếu không
thì người ta cứ phải tranh luận không dứt giữa một vị
thế vô sinh chỉ biết chấp nhận nguyên nhân mà không
dám khai triển hậu quả, làm ung thối đi những thành
quả chính đáng hợp pháp và quý báu nhất của 5 năm chiến
đấu và hy sinh.
Người ta đã thường thấy được rằng sự chiếm hữu 3 tỉnh
của chúng ta vẫn chưa phải là đầy đủ và đã trở thành
nguy hiểm nếu chúng ta không bổ sung thêm trong vòng
một thời hạn thật ngắn bằng cách chinh phục phần đất
còn lại của Nam Kỳ Hạ, điều mà tôi không có ý định quay
lại những chứng cớ dài dòng về thực tế trong khi chỉ
cần nhìn lên một tấm bản đồ thì cũng đủ để ghi nhận
được.
Ta biết rằng đối với người An Nam thì 6 tỉnh được xem
như là một khối duy nhất không thể tách biệt nhau được,
rằng chính vì cuộc chinh phục xâm chiếm vùng lãnh thổ
Biên Hòa của vương quốc Cam Bốt mà tất nhiên họ phải
bị lôi kéo vào cuộc chinh phục tiếp theo để chiếm lấy
phần đất còn lại của cả một vùng châu thổ miền Tây (châu
thổ sông Mê-kong). Nếu đó đã là điều thiết yếu cho người
An Nam thì điều đó lại còn cấp thiết hơn nữa đối với
những kể đi chinh phục đến từ Âu Châu, trong khi đang
gặp nhiều khó khăn hơn để hoà đồng một sắc dân bị chiến
bại thì những kẻ chinh phục phải làm sao để các lối
thoát của họ giảm đi và phải phân cách họ nhiều hơn
đối với bất kỳ ảnh hưởng ngoại lai nào.
Bị cách trở hoàn toàn với phần lãnh thổ còn lại của
đế quốc Đại Nam và chỉ còn có thể giao lưu với phần
lãnh thổ nầy bằng cách xuyên ngang qua các vùng lãnh
thổ bị người Pháp chiếm đóng, 3 tỉnh của người An Nam
trong miền Nam Kỳ Hạ vì đang ở dưới sự cai trị đầy run
sợ và lúc nào cũng phải cảnh giác đề phòng cho nên người
dân trong 3 tỉnh nầy bị đặt vào một cảnh huống bất thường
và bắp bênh khiến cho họ không thể có một ước muốn mãnh
liệt để nhìn thấy được thực trạng thân phận của họ.
Cũng vậy, cho đến khi nào niềm hy vọng độc lập vẫn còn
tồn tại trong con tim của những dân An Nam, - một điều
mà chúng ta phải ghi nhận rằng thái độ chần chừ của
chúng ta đã góp phần bảo tồn niềm hy vọng đó, có thể
là vượt quá phẩm cách của chúng ta, - thì 3 tỉnh nầy
sẽ vẫn còn là nơi trú ẩn của những kẻ bất mãn, là trung
tâm của những âm mưu nổi loạn mà chúng ta sẽ phải đối
đầu.
Trong hoàn cảnh thiêu thốn nhất ma lại phải bận tâm
một cách bó buộc để canh chừng cẩn mật các quan binh
triều đình Huế được phép di chuyển ngang qua phần lãnh
thổ của chúng ta theo như hòa ước đã quy định thì chúng
ta không có cách nào ngăn chận họ thực hiện những mưu
toan tuyển quân mà cũng không thể nào khắc phục được
lòng câm phẫn của dân chúng An Nam khi vẫn còn nhìn
thấy quan lại cai trị cũ qua lại trước mắt họ.
Ngay cả trong tình trạng lãnh thổ mà chúng ta đã chấp
nhận, chúng ta vẫn cứ phải gánh chịu một cách tất nhiên
những sự chống đối thù địch nặng nề và thường xuyên
của hạng người thuộc tầng lớp cao cùng với sự do dự
hoài nghi tai hại của khối quần chúng.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Nơi trang 13 và 14, thái độ khinh thường của người
Pháp về sự yếu kém và hèn nhát của quan binh triều đình
Huế đã được Francis Garnier nêu lên tách bạch và đầy
tự tin đến mức trở thành kiêu căn cao ngạo một cách
hữu lý:
Tạm dịch:
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . .
Cảm tưởng về sự bất lực quân sự của người An Nam khi
họ đối trận thường xuyên với chúng ta đến nay đã tới
một mức độ mà chỉ cần có một khẩu trọng pháo loại nhỏ
cùng với 20 ngươi cũng đủ để tiến quân một cách an toàn
trước mặt bất cứ một viên quan đầu tỉnh nào của triều
đình rồi tuyên cáo luật pháp bắt họ phải tuân hành.
Thay vì đăng dán, truyền rao chiến thắng khải hoàn thì
người ta phải biết gát bỏ lòng thỏa mãn để lo phối hợp
mọi phương cách cùng với một phương hướng hành động
nhanh chóng để chiến lãnh mà không phải đụng trận những
địa điểm trọng yếu của vùng châu thổ sông Cam Bốt (tức
là sông Cửu Long còn gọi là sông Mê-Kong) và tuyên bố
các địa điểm đó được sáp nhập vào lãnh thổ Nam Kỳ của
người Pháp. Các làng mạc sẽ được hàng phục nhanh chóng
bằng cách chỉ cắt cử người bản xứ địa phương giữ nhiệm
vụ hành chánh công quyền không bị áp lực quân sự chi
phối. Việc chinh phục 3 tỉnh của người An Nam chỉ cần
một sự rải quân nhanh chóng qua sự chuyển vận của các
tàu thuyền; và nếu gặp sự kháng cự ở tại một địa điểm
nào như ở An Giang hay Châu Đốc chẳng hạn thì đó chỉ
là ảo vọng vô ích của các quan triều nhà Nguyễn; họ
ganh ghét vì muốn bảo vệ danh dự cho khả năng quân sự
và những việc làm sai trật của họ trước đây đang bị
bêu rêu làm trò đùa. Để thực hiện sự chiếm đóng nầy,
không cần phải tăng gia thêm 1 người hay 1 tàu chiến
nào cho đoàn quân viễn chinh hiện nay ở Nam Kỳ Hạ, và
nếu tôi dám phiêu lưu để xác định thực tế nầy là vì
chính ngay vị thống đốc Nam Kỳ cũng đã từng đề xuất
như thế.
Nếu có ai phản đối rằng chúng ta đang ở trong tình
trạng hòa bình với triều đình Huế và sẻ không có một
duyên cớ chính đáng nào để biện minh cho một cuộc xâm
chiếm tàn bạo thì tôi có thể trả lời là chính triều
đình Huế đang chờ đợi cuộc xâm chiếm nầy từ lâu rồi,
kể từ khi họ bắt buộc phải bỏ rơi mọi hy vọng di tản;
từ khi họ biết được rằng họ không còn đủ khả năng để
gìn giữ, mỗi ngày họ lại tạo ra hết lý do nầy lại đến
lý do khác rất đáng để chúng ta cắt đứt mọi nghi thức
quan hệ ngoại giao; chẳng thà đơn phương chấp nhận đã
đánh giá sai lạc bản chất về những mối giao hảo với
chính quyền An Nam còn hơn là lý luận theo lối Tây phương
để rồi gây tổn hại thực sự cho đất nước, gây tổn hại
cho những hy sinh to lớn đã qua, còn hơn là cứ phải
ở trong một tình trạng hiện hữu không thể chấp nhận
được hoặc phải là tự ý rời bỏ những phương cách mở mang
theo nguyên tắc thuần lý của cuộc xâm chiếm như tôi
đã đề cặp từ lúc mở đầu bài nầy, một nguyên tắc đã từng
được một lần chấp nhận.
Đối với một chính quyền không có thiện ý và quá chậm
tiến như chính quyền của người An Nam thì muốn đảm bảo
cho tương lai được tiến triển một cách an toàn để đạt
một mục tiêu thì cần phải cẩn trọng để tạo lập một vị
thế khiến cho cho sự an bình của lãnh thổ thuộc địa
không còn phải lệ thuộc ít hoặc nhiều vào thiện ý thi
hành các hiệp ước; và khi mà tình thế thuận lợi như
lúc nầy, chúng ta có thể được đoan chắc một cách tuyệt
hảo cho việc chiếm hữu toàn diện lãnh thổ của Nam Kỳ
Hạ.
*
Đầu mục kháng chiến quản Định bị Huỳnh Công Tấn hợp
tác với quân Pháp truy kích giết chết vào ngày 20 tháng
8 năm 1864 và sau khi hòa ước Aubaret bị xóa bỏ, đề
đốc La Grandière đã lên tàu Donnaï về Pháp ngày 30/3/1865
để bàn định với Chasselouplaubat về việc thiết đặt một
chương trình cai trị khôn khéo và hữu hiệu trên các
vùng đất vừa chiếm đoạt được ở phía Nam nước Đại Nam.
Đề đốc Roze được cử sang để tạm thời thay thế trong
khi La Grandière vắng mặt ở Nam Kỳ (A. Schreiner, sách
đã dẫn; trang 268). Chuyến đi nầy của La Grandière rất
trùng hợp với bản phúc trình DE LA COLONISATION de la
COCHINCHINE của Francis Garnier vừa được viết xong vào
1 tháng 3 năm 1865.
La Grandière trở lại Nam Kỳ vào ngày 27/11/1865 mang
theo cả gia đình vợ con: điều nầy lại cho thấy rõ quyết
tâm của La Grandière nhất định thực hiện cho bằng được
chính sách bành trướng thuộc địa của người Pháp đặt
lên đất nước Đại Nam. Quyết tâm nầy không phải chỉ có
nhắm vào 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ và nước Cam Bốt mà thôi
nhưng lại bao gồm luôn hết đất nước Đại Nam từ ải Nam
Quan tới mũi Cà Mau kể cả nước Lào nữa:
1- HÀNH QUÂN BÌNH ĐỊNH
VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI
Trước hết là những cuộc hành quân càn quét dân quân
kháng chiến tại vùng Đồng Tháp Mười.
Vào lúc khởi đầu năm 1866, tình hình Nam Kỳ được chính
quyền xâm lược tuyên bố là yên ổn và có nhiều triển
vọng. Người Pháp đã thu về cho họ hơn 5 triệu đồng quan
(francs). Tình hình các tỉnh yên ổn. Khi trở lại Sài
Gòn, la Grandière đã được nhiều tầng lớp người An Nam
và người Hoa bề thế đón rước chào mừng. Trở lại Sài
Gòn, la Grandière đã mang theo nhiều bằng tuyên dương
công trạng và huy chương danh dự của chính phủ Pháp
ở Paris để tưởng thưởng những người bản xứ đã và đang
hợp tác với đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp: đốc
phủ Trần Tử Ca, đội Huỳnh Công Tấn được huy chương danh
dự (Méaille de la Légion d'honneur, thường được gọi
là mề đai điều vì nó có nền toàn màu đỏ, một loại huy
chương cao cấp của người Pháp giống như Bảo Quốc Huân
Chương của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Đồn rằng,
người đeo mề đai điều được mọi người Pháp ở bất cứ nơi
đâu kính trọng và sẽ được giảm nhẹ án khi người đeo
mề đai điều phạm tội hình sự), đội Trần Bá Lộc được
thưởng huy chương quân đội (la médaille militaire, giống
như anh dũng bội tinh của Việt Nam cộng Hòa trước 1975).
Các thế lực từ các nước lân bang đều tỏ dấu hiệu thân
thiện với người Pháp ở Nam Kỳ.
Tuy nhiên, vẫn còn vùng Đồng Tháp Mười, nơi chứa chấp
và là mật khu của dân quân kháng chiến Nam Kỳ thường
gọi là bưng biền. Tiếp nhận súng óng đạn dược từ Hà
Tiên, Rạch Giá đưa vào bưng, dân quân kháng chiến tiếp
tục gây rối và tạo khó khăn cho lịch trình thi hành
chính sách thuộc địa của người Pháp trên toàn cõi Nam
Kỳ hạ. Thống soái la Grandière đã lưu ý triều đình Đại
Nam về tình hình bất ổn ở vùng Đồng Tháp và cảnh cáo
rằng những cuộc xuất quân từ bưng biền để đánh phá đồn
bót của đoàn quân viễn chinh Pháp là vi phạm trầm trọng
hòa ước Nhâm Tuất (1862). Để đáp lại, quan binh địa
phương và triều đình Huế chỉ trả lời xin cho có hình
thức theo thủ tục ngoại giao.
Ngày 20 tháng 1 dl năm 1866, Phan Thanh Giản đã được
triều đình Huế cử làm Kinh lược đại thần 3 tỉnh miền
Tây. Người Pháp chờ đợi ông Phan Thanh Giản sẽ giải
quyết được tình hình bất ổn tại vùng bưng biền Đồng
Tháp nhưng rốt cuộc rồi họ thất vọng vì không thấy có
một dấu hiệu nào thay đổi mà tình trạng bất ổn còn gia
tăng hơn lúc trước. Mức độ các đoàn dân quân kháng chiến
xuất phát từ Đồng Tháp Mười để đánh phá càng lúc càng
nhiều và lan rộng khắp nơi. Những tiền đồn của quân
xâm lược Pháp ở Mỹ Tho bị tấn công. Quân kháng chiến
hô hào tuyên truyền rằng người Nhật Bản sẽ trợ giúp
để chống quân xâm lược Pháp.
Vào cuối tháng 3 dl, dân quân kháng chiến đánh chiếm
đồn Cái Nứa ở Mỹ Tho khiến quân Pháp phải hành quân
tái chiếm nhiều lần mới tạm yên. Không thể để tình trạng
xáo động kéo dài, quân xâm lược quyết định mở cuộc hành
quân bình định vùng Đồng Tháp Mười. Từ bên ngoài, đoàn
quân của Pháp gồm có 100 quân chính quy người Pháp,
250 lính tập người bản xứ với thành phần chỉ huy gồm
có 3 đại úy người Pháp, quản Tấn và huyện Lộc, chia
nhau đi theo 3 lộ trình xuyên đầm lầy tấn công vào cứ
điểm trung tâm của kháng chiến quân. Ngày 16 tháng 4
dl năm 1866 quân Pháp tấn chiếm Đồn Tả, một đồn chính
yếu ở trung tâm Đồng Tháp do 350 quân kháng chiến trấn
thủ và 40 khẩu đại pháo. Một đại đội quân từ tàu chiến
la Fusée được tăng viện: quân kháng chiến chống cự mãnh
liệt liệt nhưng cuối cùng phải bỏ chạy tứ tán. Chỉ huy
kháng chiến quân thiên hộ Dương chạy thoát, nhiều dân
quân kháng chiến bi quân xâm lược bắt sống ở Cái Thìa
(Mỹ Tho) trong số đó có một binh sĩ Pháp đào ngũ tên
là Linguet đi theo kháng chiến bưng biền Đồng Tháp Mười.
Chương
30
2 - CÁC CUỘC NỔI DẬY CỦA
NGƯỜI CAO MIÊN Ở NAM KỲ HẠ
Ba nhân vật chủ chốt trong những cuộc nổi dậy ở Nam
Kỳ hạ là Ong Bướm (A-Xoa), nhà sư Pù-Kâmbô và Phra-Keo-Pha.
Pù-Kâmbô và Phra-Keo-Pha được chính quyền Pháp nuôi
dưỡng và cho tá túc ở Sài Gòn với điều kiện là người
nầy không được gây xáo động nước Cao Miên đang ở dưới
quyền đô hộ của Pháp.
Trong những tháng đầu năm 1866, tình hình nước Cao
Miên (Cambodge) yên ổn. Ở Sài Gòn, Phra-Keo-Pha và-Pù-Kâmbô
tạm thời chịu ép mình chưa khích động người Miên gây
rối. Kể từ khi vua Cao Miên Nặc Ong Đôn qua đời và Nororodom
lên kế vị thì có khoảng 2,000 người Miên trong một vùng
lãnh thổ ở về phía Bắc tỉnh Tây Ninh theo về phe với
Pù-Kâmbô chống lại Norodom nhưng bề ngoài nhóm nầy vẫn
sống một cách hòa bình trong vòng kiểm soát và che chở
của chính quyền Pháp. Người Pháp chỉ biết rõ sự tình
khi Pù-Kâmbô bỏ Sài Gòn ẩn trốn lên vùng phía Bắc. Người
Pháp truy lùng thì mới biết được rằng nhà sư nầy đang
cầm đầu một nhóm nhỏ vài người Miên đi biểu dương khắp
nơi để rao truyền rằng họ sẽ dùng vũ lực để đòi lại
ngôi vua nước Cao Miên. Người Pháp cho rằng Pù-Kâmbô
với vài ba người như thế thì không thể làm được việc
gì. Nhưng rồi bỗng nhiên thấy xuất hiện một khối người
thật đông gồm có người Miên, người Chàm, người An Nam
được trang bị vũ khí, có cả sự hiện diện của A-Xoa và
người Pháp cho rằng phong trào nổi dậy nầy được triều
đình Huế ngầm yểm trợ.
Sáng ngày 7 tháng 6 dl năm 1866, khoảng 2,000 người
vũ trang, với cờ trắng phấp phới tiến về hướng thành
đồn Tây Ninh. Viên đại uý thanh tra bản xứ là Larclause
muốn dùng phương cách dàn xếp và hiểu dụ cho nên đích
thân ra khỏi thành đồn mang theo 20 binh sĩ đến gặp
họ nhưng bị họ bao vây và bắn chết. Sĩ quan hộ tống
Larclause là trung úy Lesage cũng bị giết cùng với 9
binh thuộc quyền; 11 binh sĩ sống sót rút lui vào thành
đồn Tây Ninh trong khi một sĩ quan Pháp là đại úy Pinaud
mang một tiểu đội 20 binh lính cố gắng ngăn chận nhóm
nổi dậy nhưng không cự địch nổi với số đông nên phải
rút lui vào thành đồn cố thủ và đánh điện khẩn cấp về
Sài Gòn xin cứu viện.
Đường dây điện thoại liên lạc bị nhóm nổi dậy cắt đứt
vào buổi chiều hôm đó.
Một tàu quân tăng viện do trung tá Marchaise từ vùng
Sài Gòn được gởi tới trong khi một đại úy thanh tra
bản xứ ở Trảng Bàng tên là Fremiel mang 40 binh sĩ đến
để tăng cường việc cố thủ đồn thành Tây Ninh. Khi vừa
đến nơi, trung tá Marchaise liền mở ngay cuộc hành quân
truy kích quanh vùng thành bót Tây Ninh nhưng không
có kết quả. Ngày 14 tháng 6 dl năm 1866, Marchaise lại
xuất quân 150 người cùng với hai khẩu trong pháọ. Vào
xế chiều, quân của Marchaise đụng trận với nhóm nổi
dậy ở vùng rạch Vịnh lầy lội. Marchaise và 13 binh sĩ
thuộc quyền bị giết trong lúc xung trận. Nhờ có hai
khẩu trọng pháo đại úy Fournier mới có thể rút quân
chạy lui về thành bót Tây Ninh không kịp khiêng về xác
của Marchaise. Ba ngày sau, quân Pháp quay lại chiến
trường thì không còn có thể nhận diện được các binh
sĩ tử trận cho nên một số tử thi phải chôn tập thể vào
các giếng nước bỏ hoang còn một số khác thì chôn chung
trong một thùng bằng gỗ. Đầu của Marchaise nằm dưới
một gốc cây nhưng xác thân thì không tìm thấy. Như vậy,
kể từ ngày 7 tháng 6 dl đến 14 tháng 6 dl năm 1866,
quân viễn chinh Pháp đã bị mất đến 3 sĩ quan chỉ huy
là Larclause, Lesage và Marchaise. Họ được chôn cất
tại một nghĩa địa ở Tây Ninh. Sau nầy hài cốt của Larclause
và Lesiege được đưa về Pháp chôn cất lại. Vào tháng
6 năm 1905, một đoàn công tác Pháp do thanh tra bản
xứ tỉnh Tây Ninh tên là Pech cùng với một sĩ quan bộ
binh Collin cầm đầu đến vùng giao tranh cũ đào xới và
tìm thấy một thùng gỗ 3 mét chiều dài và 1 mét 50 chiều
ngang nhiều bộ xương người lẫn lộn với giày vớ nhà binh
và được mang đi chôn chung nơi nghĩa địa Tây Ninh vào
ngày 16 tháng 6 dl năm 1906, trên ngôi mộ tập thể nầy
có dựng một cột bia ghi nhớ những binh sĩ viễn chinh
Pháp tử trận trong 2 ngày 7 và 14 tháng 6 dl năm 1866.
Sau biến cố nổi dậy nầy, quân binh của Pháp trấn đóng
tại thành đồn Tây Ninh được tăng lên đến 500 người dưới
quyền chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Alleyron. Đồn bót
Trảng Bàng cũ được tăng viện tàu chiến trên vùng sông
Vàm Cỏ Đông.
Sài Gòn được quân Pháp tăng cường phòng thủ cẩn mật.
Do đó dân quân kháng chiến đã nhắm vào các vùng lân
cận để đánh phá đồn bót của Pháp ở các vùng Thuận Kiều,
chợ Hốc Môn, Trảng Bàng. Các mật khu kháng chiến đặt
ở vùng Cầu An Hạ, một vùng đầm lầy nằm giữa Trảng Bàng
và vùng sông Vàm Cỏ Đông. Do đó la Grandière đã cho
mở nhiều cuộc hành quân càn quét các vùng nầy. Ngày
27 tháng 6 dl 500 lính Pháp và 100 lính tập bản xứ,
50 thủy bộ binh mở cuộc hành quân bao vây vùng Cầu An
Hạ truy kích kháng chiến rút chạy về hướng Bắc nơi có
nhóm nổi dậy Pù-Kâmbô hoạt động. Một nhóm kháng chiến
khác rút chạy về hướng Nam.
Tháng 7 dl năm 1866, quân Pháp càn quét truy kích,
nhóm nổi dậy người Miên trốn chạy bỏ lại nhiều xác chết.
Tiếp tục hành quân truy kích, quân pháp đánh bật nhóm
nổi dậy ra khỏi mật khu Ba Vang , đồng thời bắt được
112 dân quân kháng chiến quanh vùng Tây Ninh.
Tất cả những cuộc nổi dậy vừa kể trên, người Pháp quy
trách nhiệm cho quan binh của triều đình Huế, không
những nhắm mắt làm ngơ mà còn ám trợ cho họ đánh phá
các đồn bót của Pháp. Người Pháp phản kháng, triều đình
Huế phải ra lệnh loại trừ A- Xoa để xoa dịu mối căng
thẳng nhưng Pháp vẫn không hài lòng và cho rằng phía
triều đình chỉ loại trừ dùm cho Pù-Kâmbô một đối thủ
tranh ngôi vua nước Cao Miên.
Trong khi vua Norodom chỉ biết ngồi làm vua vô quyền
thì những người Miên nổi dậy đánh phá ngay trên nước
Cao Miên (Cambodge). Norodom phải cầu cứu với chính
quyền bảo hộ Pháp. Người Pháp phải đối đầu, đánh dẹp
liên tục những cuộc đánh phá của nhóm người Miên nổi
dậy do Pù-Kâmbô cầm đầu tại vùng Oudong - Pnom Penh
nhưng chỉ đẩy lui được nhóm nầy chạy ngược về phía Nam
và ngay trong nội tình triều đình của Norodom cũng có
phe muốn theo về với Phra-Keo-Pha để hạ bệ Norodom.
Trong khi phải vừa tổ chức hành quân bình định kháng
chiến quân cùng những cuộc nổi dậy ở Cao Miên cũng như
phải xây dựng những nền tảng cơ bản cho chính sách thuộc
địa tương lai của người Pháp ở Đông Dương thì dư luận
ở bên Pháp vẫn còn tiếp tục chống lại chính sách thuộc
địa và chủ trương bành trướng lãnh thổ của đoàn quân
viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ Hạ khiến Napoléon III phải
trù trừ không dứt khoác. Sau khi Rigault de Genouilly
thay thế Chasselouplaubat trong chức vụ bộ trưởng Bộ
Hải Quân và Thuộc Địa, Napoléon đã phải gởi sĩ quan
hải quân hoàng triều là des Varannes sang thanh sát
vùng Java và Nam Kỳ Hạ. Sau gần 2 tháng kinh lý Nam
Kỳ, des Varannes đã ghi nhận tình hình ở Nam Kỳ Hạ tiến
triển rất khả quan cho chính sách thuộc địa của người
Pháp khiến cho hoàng đế Napoléon III đã có thái độ dứt
khoác đối với những âm mưu lợi dụng thời cơ của triều
đình Huế. Napoléon III cho phép La Grandière tiến hành
cuộc xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
Cùng thời điểm nầy, để chuẩn bị cho việc xâm lăng Bắc
Kỳ, sau khi tham khảo ý kiến và được phép của bộ Hải
Quân và Thuộc Địa, La Grandière đã thành lập một phái
đoàn thám hiểm dòng sông Mê-Kong do thiếu tá hải quân
de Lagrée làm trưởng đoàn và trung úy Thanh Tra Bản
Xứ Sự Vụ Francis Garnier đoàn phó, Delaporte sĩ quan
hải quân tập sự, 2 y sỹ hải quân Joubert và Thorel,
de Carné tùy viên của bộ ngoại giaọ Đoàn thám hiểm có
4 người Pháp và 6 lính tập người bản xứ hộ tống cùng
với 1 thông dịch viên người Pháp và một thông dịch viên
người Cam Bốt. Ngày 5/6/1866 đoàn thám hiểm rời Sài
Gòn trên 2 pháo thuyền số 32 và số 27. Trong 2 năm ròng
rã, đoàn đã ngược dòng sông Mê-Kong thám hiểm lên đến
tận vùng đất tỉnh Vân Nam của Trung Quốc và và trưởng
đoàn de Lagrée đã bị chết vào ngày 12/3/1863 tại Đông
Châu Phủ/Trung Quốc vì bệnh viêm gan và được Francis
Garnier và đoàn thám hiểm mang xác về Sàigòn ngày 29
tháng 6 năm 1868.
3- PHÁP ĐÁNH CHIẾM 3
TỈNH MIỄN TÂY NAM KỲ
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867), ngày 14 tháng 2 dl năm
186, la Grandière phái phó thuyền trưởng Monet de la
Marek theo tàu chiến Monge ra Huế để đòi nợ bồi thường
chiến phí chưa nộp đúng kỳ hạn đồng thời thúc hối triều
đình Huế phải giao nhượng ngay 3 tỉnh miền Tây. Triều
đình Huế khước từ đòi hỏi của Pháp và chỉ muốn chuộc
lại các tỉnh đã bị mất vào tay người Pháp.
Viện Cơ Mật đề nghị cử Phan Thanh Giản vào Sài Gòn để
dọ ý người Pháp về yêu cầu chuộc lại các tỉnh đã mất.
Ngày 24 tháng 2 dl năm 1867, Pháp lại mở hội chợ đấu
xảo ở Sài Gòn. Trong ngày phát giải thưởng tại hội chợ
nầy Phan Thanh Giản đứng cạnh thống soái La Grandière
cùng với thủ lãnh nhóm người miên nổi dậy là Pra-Keo-Pha
và hai quan thượng thơ của triều đình vua Cao Miên Norodom.
Ở Sài Gòn, La Grandière bí mật lên kế hoạch hành quân
tiến chiếm 3 tỉnh miền Tây.
Theo A. Schreiner thì kế hoạch nầy được la Grandière
chuẩn bị một cách bí mật từ 3 tháng trước. Tuy nhiên,
theo Paulin Vial, nguyên là giám đốc Nha Nội vụ dưới
thời la Grandière và cũng là tác giả sách Nos Premères
Années au Tonkin thì kế hoạch nầy đã được chẩn bị sắp
xếp từ hơn một năm trước đó:
(Paulin Vial; Nos Premières Années du TONKIN; trang
8-9; Voiro-Paris; 1889)
Tạm dịch: Việc sáp nhập 3 tỉnh miền Tây đã được dự
liệu thận trọng và chuẩn bị một cách bí mật không có
gì gọi là đáng phải ngạc nhiên. Dân chúng cũng thế khi
họ biết rằng đó chỉ là một việc làm phúc lợi cho họ.
Hơn một năm trước, những viên chức được tuyển dụng để
nắm giữ việc hành chánh cai trị trong các tỉnh mới đã
được phối trí tập sự làm việc tại các tỉnh miền Đông.
Trong 13 quản hạt có khoảng 50 viên chức hạng tập sự
nầy. Chưa có một nguồn lợi kinh tế nhỏ nhoi nào ban
phát cho ngạch nhân dụng. Những tin tức về tình hình
an ninh tình báo thường được giao phó cho những người
dân An Nam nhiệt tình.trên nhiều lãnh vực và ở nhiều
nơi.
Như vậy trong khi vua Tự Đức vẫn cố tình gây ra những
tình trạng bất ổn, rối loạn và nổi dậy trên vùng đất
do người Pháp chiếm đóng, thì chúng ta đương nhiên cần
phải chuẩn bị một sự giáng trả.ngay trên các phần đất
của ông vua đó. Người dân An Nam chín chắn và biết phòng
xa hơn so với các ông quan triều đình của họ đã thấy
được sẻ cần phải làm cách nào để giải tỏa một tình trạng
rắc rối nhỏ nhứt.- Một số lớn dân chúng ở các tỉnh miền
Tây đã tỏ dấu hiệu cho chúng ta biết rằng họ sẵn sàng
theo về với chúng ta khi chúng ta khởi sự biểu dương
lực lượng.
*
Ngày 15 tháng 6 dl năm 1867, La Grandière mật điện lệnh
cho các đơn vị tham chiến và các chỉ huy hạm đội tàu
chiến: điểm tụ quân ở Mỹ Tho.
Chiều ngày 17, các đơn vị tham chiến bắt đầu di chuyển
đến Mỹ Tho.
Ngày 18, lực lượng quan binh Pháp hội quân tại Mỹ Tho
là 1,200 người cùng với 8 thanh tra bản xứ và nhiều
nhân viên hành chánh sẽ đặt vào những tỉnh huyện ở các
nơi sắp chiếm đóng. Ngoài ra còn có 400 lính tập người
bản xứ (còn gọi vệ binh, ngày nay gọi là dân vệ hay
cảnh sát) do Pháp tuyển chọn trong tỉnh Mỹ Tho cùng
tham dự cuộc đánh chiếm nầy. Số tàu chiến tham dự gồm
có các pháo thuyền bằng gỗ la Mitraille, le Bourdais,
l' Alom-Prah, các pháo thuyền bằng sắt l' Espignole,
le Glaive, le Fouconneau, la Halle-barde, l' Arc, tàu
tuần sát Biên Hòa và một tàu vận vận tải chạy bằng hơi
nước.
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20, ngày 18 tháng 5 âl (ngày 19
tháng 6 dl năm 1867), vào lúc một giờ trưa, soái hạm
l' Ondine của La Grandière từ cửa biển Soài Rạp (Gò
Công) tiến vào sông Tiền hướng về Mỹ Tho. Các chỉ huy
trưởng thủy, bộ binh, các hạm trưởng tàu chiến đều lên
soái hạm để nghe La Grandière ban phát những chỉ thị
hành quân cuối cùng. Binh lính và vệ binh bắt đầu xuống
các tàu đỗ bô. Vào nửa đêm thì hạm đội tấn công chở
theo binh lính của Pháp tiến đến thành Vĩnh Long.
Buối sáng sương mù ngày 19 tháng 5 âl (20 tháng 6 dl
1867), các chiến hạm của đoàn quân xâm lược thả neo
trước mặt thành tỉnh Vĩnh Long. Vào 7giờ30 sáng, các
chiến hạm đều ở đúng vào vị trí tác chiến . Binh sĩ
thủy, bộ được chuyển lên bờ bao vây thành Vĩnh Long.
Một quan phụ tá hành quân của La Grandière được phái
vào thành để yêu cầu quan binh đồn trú đầu hàng và nộp
thành. Khi sương mù tan, quan binh Đại Nam mới biết
thành Vĩnh Long bị đoàn quân xâm lược Pháp bao vây(11).
Kinh lược Phan Thanh Giản và Án sát Võ Doãn Thanh ra
khỏi thành xuống soái hạm Ondine để gặp La Grandière
yêu cầu quân Pháp rút lui nhưng La Grandière nhất quyết
cự tuyệt, đòi quan binh triều đình tại 3 thành Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên phải đầu hàng. Biết rằng không
thể nào làm thay đổi tình thế, Phan Thanh Giản yêu cầu
La Grandière ra lệnh cho thuộc hạ không được giết hại,
cướp bóc tài sản của dân chúng trong thành. La Grandière
chỉ hứa rằng các quan lại của triều đình Đại Nam sẽ
vẫn giữ các nhiệm vụ cũ sau khi đoàn quân của Pháp chiếm
đóng 3 tỉnh với điều kiện là Phan Thanh Giản phải xuống
lệnh cho họ đầu hàng và các nhóm kháng chiến phải ngưng
hoạt động tại các nơi đó Phan Thanh Giản viết thơ cho
các đốc trấn thành An Giang (Châu Đốc), Hà Tiên, thông
báo là thành Vĩnh Long đã bị bao vây, yêu cầu quan binh
giao nộp thành cho người Pháp để dân chúng không bị
liên lụy vì chiến tranh. Khi Phan Thanh Giản trở về
thì quân Pháp đã chiếm đóng thành Vĩnh Long.
La Grandière liền cử đại tá Rebout làm chỉ huy trưởng
quân sự 3 tỉnh miền Tây và đại úy Bourchet làm thanh
tra bản xứ (tỉnh trưởng) tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 20 tháng 5 âl (21 tháng 6 dl năm 1867), hạm trưởng
Galey và giám đốc Nội vụ P. Vial đưa tàu chiến Biên
Hòa cùng một lúc với một số pháo thuyền và binh sĩ đỗ
bộ xuống tiến chiếm An Giang (Châu Đốc). Trên lộ trình
chuyển quân, họ gặp 2 chiếc ghe buồm có che lọng và
hiệu kỳ chỉ huy của quan tổng đốc Hà Tiên. Viên tổng
đốc được yêu cầu lên chiến hạm Biên Hòa, nhận lệnh thư
của Phan Thanh Giản và bị giữ lại trên tàu cho đến lúc
tàu đến An Giang (Châu Đốc).
Vào 11 giờ đêm, tất cả lực lượng của Pháp đã được phối
trí sẵn sàng để hạ thành An Giang.
Tổng đốc An Giang được gọi ra tàu Biên Hoà để nhân lệnh
đầu hàng của Phan Thanh Giản. Tổng đốc An Giang cùng
với hai quan Bố chính và Án sát âm mưu bắt Vial và Galey
làm con tin nhưng mưu sự bất thành. Quân Pháp vào chiếm
đóng thành An Giang. Sáng ngày hôm sau 22 tháng 6 dl
1867, soái hạm Ondine đến thành Ang Giang, La Grandière
vào thành cắt đặt nhân sự, cử trung úy bộ binh Vignes
làm thanh tra bản xứ tỉnh Sa Đéc. Hạm trưởng Valey được
thăng thiếu tá.
Ngày 22 tháng 5 âl (23 tháng 6 dl năm 1867), thiếu
tá Galey trên tàu chiến la Flamberge cùng với một tàu
chuyên chở chạy bằng hơi nước, 20 ghe buồm chở binh
sĩ và vệ binh xuất phát từ Châu Đốc qua Hà Tiên. Trên
tàu chiến la Flamberge có mặt tổng đốc Hà Tiên và do
đó cuộc tiến chiếm thành Hà Tiên không có gì trở ngại
đối với đoàn quân xâm lược Pháp. Đại úy Dauvergne được
cử việc cai trị vùng lãnh thổ Hà Tiên.
La Grandière sai Legrand de la Liraye theo tàu chiến
le Monge ra Huế cùng với một thông ngôn thông báo việc
quân binh Pháp chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây của Đại Nam.
Triều đình Huế phản kháng, yêu cầu trả tự do cho các
quan binh triều đình trong 3 tỉnh đó đang bị quân Pháp
quản thúc và trả lại một số vùng đất thuộc tỉnh Biên
Hoà và Sài Gòn để bồi thường cho triều đình về việc
người Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây nhưng vô hiệu.
Pháp chỉ chịu giao trả quan binh của triều đình trên
3 tỉnh đó.
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20, tháng 6 âl, sau khi 3 tỉnh
miền Tây bị mất, Phan Thanh Giản gởi trả triều đình
ấn tín và bắt đầu tuyệt thực. Ông viết thơ để lại khuyên
các con không được hợp tác làm việc cho quân xâm lược
Pháp nhưng phải sống hòa bình không chống phá gây hấn
với người Pháp, các cháu của ông nên được giáo huấn
như con cái của người Pháp. Ông trối thác muốn được
chôn cất ở quê nhà tại làng Bảo Thạnh, tỉnh Bến Tre
rồi trước sự hiện diện chứng kiến của những người thân,
ông mặc triều phục đứng hướng về phương Bắc cung kính
quỳ bái 5 lạy rồi nâng chén thuốc độc uống cạn (liều
thuốc phiện cực mạnh). Một y sĩ người Pháp Le Coniat
đã hết sức tìm cách để cứu sống ông nhưng sau đó 2 ngày
thì ông qua đời vào ngày 5 tháng 7 dl năm 1867.
Thống soái La Grandière đã tự tay viết thơ chia buồn
gởi đến con trưởng của ông Phan Thanh Giản. nguyên văn
lá thư như sau:
"Le Vice-amiral, gouverneur et commandant en chef
en Cochinchine, au fils ainé de S. Exc. Phan Thanh Giảng,
vice grand censeur du Royaume d'Annam.
Vinh Long
J'apprends avec une grande douleur la mort de S.Exc.
Phan Thanh Giảng, votre père.
Le royaume d'Annam, dont il éait le membre le plus éminent,
perd dans ce vieiilard respectable un de ses gloires
et de ses lumières, et le sentiment de profonde estime
qu ' il laissse dans ma mémoire et dans celle des Français
sera plus durable que la haine de ses ennemis.
Aucun autre que votre père n'a compris à Huế quels
étaient les avantages qui devaient assurer le bonheur
du peuple, et c'est un sentiment touchant et digne de
respect qui l' a, malheureusement, porté à ne pas vouloir
suvivre aux conséquences d' une politique dont tous
les torts et toute la responsbilité appartiennet au
gouvernement annamite.
Le témoignage officiel de mon estime et de mon amitié
que je vous adresse dans cette lettre, doit être conservé
dans votre famille comme le gage des sentiments que
les Français conserveront pour votre vénérable père
et pour sa famille.
Soyez persuadé aussi que je m' efforcerai, par tous
les moyens qui dependent de moi, d' assurer le bonheur
de ses enfants, en leur accordant les faveurs et les
positions qui porront leur convenir.
Agreez l' assurance de ma considération très distinguée.
Saigon, le 5 août 1867.
De la Grandière."
Tạm dịch:
"Phó Đề đốc, thống đốc kiêm tổng tư lệnh quân lực
Nam Kỳ, gởi đến ông trưởng nam của Ngài Phan Thanh Giảng(*)
phụ chính khâm sai đại thần của Vương quốc An Nam.
tại Vĩnh Long.
Tôi rất là đau buồn biết được tin về cái chết của Ngài
Phan Thanh Giảng thân phụ của ông.
Vương quốc An Nam, mà trong đó ngài Phan Thanh Giảng
là một thành viên lỗi lạc hơn hết, đã đánh mất đi một
trong những phần vinh quang, trí thức và tình cảm sâu
đậm quý mến của vị quan lão thành nầy, nhưng những điều
đó vẫn đang lưu lại trong trí óc của tôi cũng như trong
trí óc của người Pháp một cách bền vững hơn là sự oán
ghét của những quân thù của vị quan lão thành ấy.
Ngoài phụ thân của ông trưởng nam ra, nơi triều đình
Huế không còn ai nhận thức được những điều gì cần phải
thực hiện để bảo đảm cho người dân có thể sống hạnh
phúc và chính là vì vấn đề có liên hệ đến cảm tính cùng
với đức tự trọng đã khiến cho vị quan lão thành nầy
không còn thiết sống dưới dự chi phối của những hậu
quả chính trị sai trái và dẫy đầy trách nhiệm do chính
quyền của triều đình nước An Nam tạo ra.
Những biểu lộ chính thức về lòng kính mến và tình bằng
hữu của tôi trong lá thư nầy ông cần phải lưu giữ lại
trong gia tộc như là một bằng chứng về những cảm tình
mà người Pháp sẽ giữ riêng cho phụ thân đáng kính của
ông và gia tộc của ông ấy.
Ông hãy tin rằng tôi sẽ cố gắng bằng mọi phương cách
mà tôi có được để đảm bảo cho con cháu của vị quan lão
thành có được những quyền lợi và chức vị thích hợp với
họ trong tương lai.
Xin ông hãy chấp nhận lòng kính trọng rất đặc biệt
của tôi.
Sài Gòn ngày 15 tháng 10 dl năm 1867
Ký tên: De la Grandière"
La Grandière đã ra lệnh cho thuộc hạ dưới quyền đặt
quan tài của ông trên một chiếc ghe lớn và được một
pháo thuyền của Pháp kéo về làng Bảo Định gần cửa sông
Ba Lai tỉnh Bến Tre. Một đội quân dàn chào danh dự của
quân đội Pháp cũng được phái đến để cung hầu quan tài
của ông Phan Thanh Giản suốt thời gian tiến hành lễ
an táng theo tục lệ của người Đại Nam. Dân chúng tham
dự đám tang rất đông. Mộ chí của ông ghi Lương Khê Phan
lão nông Chi Mộ.
*
VI/-VỀ VIỆC ĐÁNH GIÁ ÔNG
PHAN THANH GIẢN
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ NHỨT:
Tháng 4 â.l, năm Nhâm Tuất (1862), trong lúc tình hình
bất ổn ở Bắc Kỳ không thể giải quyết, Bonard lại sai
hạm trưởng tàu chiến Forbin là Simon đến cửa biển Thuận
An (đầu tháng 5 d.l năm 1862) để đưa thư liệt kê 3 điều
kiện tiên quyết để hòa đàm: 1/ - Trong vòng 3 ngày phải
trả trước cho người Pháp 100,000 quan tiền bồi thường
chiến tranh tính ra lạng bạc; 2/ - Để cho Pháp đặt người
của họ toàn quyền cai quản trên các vùng đất hiện do
Pháp tạm chiếm; 3/ - Trong vòng 8 ngày phải cử đại diện
để hòa đàm với Pháp. Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành
đem việc ấy trình lên. Triều đình bàn bạc và phải chịu
chấp nhận những đòi hỏi tiên quyết số 1 và số 3 của
Pháp.
Thuyền trưởng Simon trở về Sài Gòn mang theo 2 điều
kiện tiên quyết của Pháp được triều đình Huế chấp nhận.
Sau đó Simon trở ra Thuận An. Triều đình Huế cử Phan
Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp làm chánh, phó sứ toàn quyền
đại thần để hội nghị với người Pháp. Khi sắp đi, Tự
Đức rót rượu riêng của mình ban cho và dụ rằng đoàn
sứ không được nhận điều khoản tự do truyền đạo Gia tô
và không được nhượng thêm đất.
Ngày 24 tháng 4 âl (1862) Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Hiệp đi thuyền Thụy Nhạc uy vệ ra của biển Hội An, qua
tàu Forbin gặp Simon trao 100,000 quan tiền trả trước.
Sau đó tàu Forbin hộ tống thuyền Thụy Nhạc vào Gia Định.
Ngày 30 tháng 4 â.l (26 tháng 5 d.l năm 1862), đoàn
sứ Đại Nam tới Sài Gòn. Cuộc đàm nghị mở ra liên tục
cho đến ngày 9 tháng 5 â.l năm Nhâm Tuất (5 tháng 6
d.l năm 1862) thì 2 bên ký định ước. Các điều khoản
của định ước nầy phải được triều đình nước Đại Nam và
triều đình nước Pháp thông qua trong vòng 1 năm.
Ngày 11 tháng 5 â.l (7 tháng 6 d.l năm 1862), đoàn
sứ Đại Nam đi thuyền về, đến Huế vào ngày 14 tháng 6
â.l (10/6 d.l/1862).
Xem xong bản định ước 12 khoản, Tự Đức dã quở trách
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp và cho rằng 2 viên quan
nầy. Vua nói " thương thay con đỏ của lịch triều,
nào có tội gỉ Rất là đau lòng. Hai viên nầy không những
là người có tội với triều đình nhà Nguyễn mà còn mắc
tội đối với nghìn muôn đời vậy !" rồi đưa xuống
cho đình thần bàn xét.
Sau khi bàn xét đình thần phúc tâu như sau: về khoản
cắt đất và trả tiền bồi thường chiến tranh thì Phan
Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đã thỏa thuận rồi nhưng phần
nhiều chưa hợp. Nhưng vì đây là một bản điều ước mới
định, nếu vội sửa đổi ngay, sợ họ còn tức khí, chưa
chắc đã nghe theo ngay. Xin đề nghị để 2 viên quan ấy
ở gần liên lạc với người Pháp bàn tính để họ châm chước
lần lần và cũng là để 2 viên quan đó có dịp chuộc lại
lỗi lầm đã nhượng đất và chịu trả quá nhiều tiền bồi
thường; đề nghị bắt tội họ vì không chu toàn trách nhiệm
được giao phó từ trước.
Tự Đức cho rằng nếu bắt tội Phan Thanh Giản và Lâm
Duy Hiệp thì không thể tìm được người khác có khả năng
như họ để nhận lãnh trách nhiệm hoà nghị và do đó giao
cho Phan Thanh Giản lãnh tổng đốc Vĩnh Long, Phan Duy
Thiếp (Hiệp) lãnh chức tuần phủ Thuận - Khánh nhưng
2 người vẫn phải tiếp tục trách vụ đàm phán với người
Pháp để chuộc tội.
Một kẻ lãnh đạo quốc gia có liêm sĩ và đạo đức phải
biết nhận trách nhiệm về khả năng cai trị yếu kém của
mình với tổ quốc, với dân chúng. Những hàng cộng sự
của mình chỉ là cấp thừa hành phải làm theo lệnh của
cấp trên khi cấp trên là một kẻ ôm đồm thu tóm hết quyền
lực kể cả quyền làm chủ mạng sống của mọi người không
phân biệt là hạng thứ dân hay quan đại thần.
Đáng lý câu tuyên bố của Tự Đức phải như sau thì chắc
là đúng hơn: "thương thay con đỏ của lịch triều,
nào có tội gì? Rất là đau lòng. Không những là Trẫm
có tội với triều đình nhà Nguyễn mà còn mắc tội đối
với nghìn muôn đời vậy!" Và sau khi đóng tuồng
nhận tội như thế rồi Tự Đức lại đóng tuồng tuyên bố
tự thoái vị, rồi mấy ông đại thần thần ở Huế giả bộ
quỳ lạy ôm chân năng nỉ xin Tự Đức đùng bỏ ngôi, rồi
bên ngoài sai quân binh giựt giây cho dân chúng tụ họp
biểu tình hoang hô ủng hộ Tự Đức, ủng hộ tập đoàn đình
thần ăn không rỗi nghề ở Huế và đã đảo quân xâm lược
Pháp thì có lẽ sách sử nhà Nguyễn sẽ để lại cho hậu
thế hình ảnh của một ông vua hiền sáng giá biết nhận
lãnh trách nhiệm có tên là Tự Đức chăng? Nếu Tự Đức
đã làm được như thế thì rất có thể đã gây được xúc động
của toàn quân toàn dân và biến họ thành một khối đại
đoàn kết dân tộc để chống quân xâm lược phương Tây.
Cần gì mà phải trút hết tội lỗi lên đầu ông Phan Thanh
Giản và ông Lâm Duy Hiệp!
Không phải tất cả người hậu thế đều ngây thơ và xuẩn
động đến mức độ tin tưởng lời tuyên bố buộc tội thốt
ra từ miệng của Tự Đức rồi sẽ hùa theo Tự Đức để làm
mốp méo lịch sử.
Câu tuyên bố của Tự Đức cho thấy rõ trong chế độ tập
đoàn phong kiến dù ở bất cứ triều đại nào, dù bất cứ
ở đâu thì người dân đen luôn luôn là kẻ tôi mọi phục
vụ riêng cho gia tộc của kẻ đang nắm quyền cai trị và
vận mạng đất nước. Tại sao 2 ông Giản và Hiệp lại có
tội với nhà Nguyễn? Bởi vì Tự Đức xem đất nước Đại Nam
là tài sản riêng của nhà Nguyễn nhất là những vùng lãnh
thổ ở Nam Kỳ Hạ lại còn có những mối dây ràng buộc tình
cảm đối với họ Nguyễn nói chung và đặc biệt với Tự Đức
nói riêng. Phải chi trên thực tế Tự Đức là một vị minh
quân tài đức biết hy sinh đời mình cho quốc gia dân
tộc thì lời tuyên bố buộc tội 2 ông Phan, Lâm của vị
minh quân sẽ trở thành khuôn vàng thước ngọc, một lời
hiệu triệu mạnh mẽ để lôi kéo toàn quân, toàn dân một
lòng liều chết chống trả quân xâm lược, nhưng thật tiếc
thay người dân Đại Nam, đất nước Đại Nam vào thời đó
không có được ông vua xứng đáng gọi là minh quân như
thế!
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ NHÌ:
Sau khi chịu tiếp kiến phái đoàn sứ Pháp-Tây Ban Nha
để nhận hoà ước Nhâm Tuất đã được Hoàng đế Napoleon
III ký chuẩn phê, Tự Đức bằng lòng trao cho đối phương
bản hoà ước Nhâm Tuất do chính tay mình chuẩn phê, Tự
Đức lại đổ tội cho Phan Thanh Giản và Ông Lâm Duy Hiệp
cùng với nhiều người khác và lần nầy kèm theo án phạt
trảm giam hậu treo vào cổ 2 ông Phan, Lâm.
Có một điều đáng lưu ý ở đây là những người bị án
phạt phải tự động làm tờ tự thú chính họ đã bất lực
gây ra cớ sự và lạy xin Tự Đức hãy trừng phạt họ! Nhưng,
Tự Đức đâu có độc đoán tự động trách phạt họ! Tự Đức
lại giao xuống cho cơ quan pháp ti chấp án! Bởi vì có
như vậy hậu thế mới thấy được Tự Đức là một ông vua
công minh trong vấn đề xử phạt những kẻ có tội: thật
là một ông vua khôn ngoan tột mức! Về việc nầy sách
ĐNTLCB của sử quán triều Nguyễn trong tháng 3 âl năm
Quý Hợi (1863) ghi chép như sau:
Nguyên binh bộ thượng thư lãnh tuần phủ Thuận Khánh
la Lâm Duy Thiếp (Hiệp) mất Bộ lại tâu lên. Vua nói:
Duy Thiếp chưa hay lập công chuộc tội, nhưng nghĩ đến
người bầy tôi cũ, gia cấp cho hạng lụa màu và tiền,
còn xử theo tội gì sau sẽ bàn định.
Bọn Đoàn Thọ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành tự cho
là đi thương thuyết không được công trạng gì, xin chịu
tội. Việc ấy giao xuống cho pháp tư bàn. Khi án dâng
lên, Thanh Giản, Duy Thiếp (Hiệp) chiểu theo luật "thừa
sai báo cáo quân kỳ" (nghĩa là vâng lệnh đi báo
cáo kỳ hạn việc quân). Nghĩ tội trảm giam hậu. Đoàn
Thọ, Trần Tiễn Thành so sánh vào luật "vi chế"
nghĩ tội phạt trượng, thuộc về tội công chuẩn giáng
4 cấp đổi đi. Phạm Phú Thứ chiểu luật sai lầm ý trong
chỉ dụ, giảm mức tội xuống nghĩ phạt trượng, chuẩn giáng
1 cấp lưu dụng.
Vua gia ơn cho Thanh Giản giảm xuống tội cách lưu;
Thọ và Tiễn Thành xuống tội giáng chức lưu dùng. Duy
Thiếp đã chết, truy đoạt lại chức hàm; Nguyễn Quang,
Đặng Hạnh, Phạm Ý, Lê Tuấn cũng đều cho giáng, phạt
có thứ bậc khác nhau. (ĐNTLCB;đệ tứ kỷ; quyển XXVIII;
bản dịch; trang 14, 15; Hà Nội; 1974).
Hậu thế sẽ thắc mắc: tại sao đã biết là kẻ địch ép
bức nhưng khi mặt đối mặt với kẻ thù nơi điện Thái Hòa,
vị vua "khôn ngoan và kiên cường" của thần
dân nước Đại Nam không ngó thẳng vào mặt kẻ địch để
tố cáo bọn họ là một nhóm người xâm lăng cướp nước rồi
cầm bản hòa ước có chữ ký của hoàng đế Napoléon III
quăng xuống đất và truyền lệnh quân binh tống khứ bọn
họ ra khỏi điện Thái Hòa?
Tại sao không đem ông Giản, ông Hiệp ra chém ngay đi
cho rồi mà còn bày trò trảm giam hậu để làm gì? Cần
gì phải chém ngay cho mang tiếng là hung bạo bất nhân,
cứ để đó, trước sau gì rồi thì hai kẻ tử tội nầy cũng
phải chết nhưng họ phải tự xử, tự tìm lấy cái chết cho
mình chứ không phải do tay vị hoàng đế nhân từ sát hạ!
Và đúng như ý muốn của Tự Đức, bởi vì tử tội Lâm Duy
Hiệp đã "bị bệnh dịch tả" chết ngay vào lúc
trao đổi hòa ước Nhâm Tuất, một cái chết rất đáng nghi
ngờ, rất đáng dị nghị: phải chăng ông Hiệp đã tự xử
lấy đời mình nhưng sử sách nhà Nguyễn lại lắp liếm viết
rằng ông bị chết vì bị nhiễm lây bệnh dịch tả đang hoành
hành lan tràn khắp miền Trung Kỳ vào lúc đó?
Đọc lại sử phong kiến Việt Nam, các kẻ bị gọi là kẻ
thù hay bị coi là nguy hại cho một ông vua hay một triều
đại thường bị án tử hình giam hậu nhưng hầu hết các
tử tội đều tự xử lấy bằng cách uống thuốc độc hoặc tự
treo cổ lúc còn bị giam giữ trong ngục chờ ngày lên
đoạn lầu đài! Người ta sẽ tự hỏi trong ngục làm sao
có sẵn thuốc độc hay dây thừng để kẻ tử tội tự xử nếu
các thủ hạ của nhà vua không mang các thứ đó để sẵn
trong ngục? Còn cái chết của ông Lâm Duy Hiệp sao lại
trùng hợp một cách lạ lùng với bản án tử hình giam hậu
mà pháp ti của triều đình Huế và Tự Đức sắp treo vào
cổ ông Hiệp sau khi nghi thức chuẩn phê hòa ước Nhâm
Tuất hoàn tất tại Huế. Đây có thể là một nghi án xin
để người sau truy cứu thực hư.
Đổ tội, kết án trảm giam hậu ông Phan Thanh Giản nhưng
không giam ông vào ngục thất để chờ giờ hành quyết nhưng
lại buộc ông phải tiếp tục cái công tác mà không có
một ông đại thần "tài giỏi" nào ở triều đình
Huế dám tình nguyện đảm nhận và mặc dù ông Giản lúc
nầy gần 70 đã nhiều lần xin Tự Đức cho được mãn nhiệm
nghĩ hưu nhưng bị từ chối.
Chương
31
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ BA:
Chính trong bối cảnh vừa kể trên ông Giản lại bị kết
tội lần thứ 3 và lần nầy không phải do Tự Đức hay do
triều đình Huế kết tội mà "người ta đồn rằng"
nhân dân kết tội hai ông Giản và Hiệp bán nước. Việc
kết tội lần nầy do Trương Định chủ xướng khi trên lá
cờ hiệu khởi nghĩa của ông ta có dòng chữ Phan, Lâm
mãi quốc; triều đình khi dân.
Sau khi đi sứ thắng lợi từ Pháp trở về, ông Giản
lại được Tự Đức giao nhiệm vụ thương thảo với Aubaret
ký kết một hòa ước mới để thay thế hòa ước Nhâm Tuất
1862. Ông Giản đã kỳ kèo với Aubaret theo đúng chỉ thị
của Tự Đức và triều đình Huế và kết quả là hòa ước Aubaret
được hình thành. Tuy nhiên, Tự Đức và triều đình Huế
lại vẫn chưa hài lòng về việc ông Phan Thanh Giản ký
kết hòa ước mới Aubaret 1864. Và lại cũng chính ông
Giản cùng với các viên khác có nhiệm vụ do Tự Đức và
triều đình Huế giao phó để thương lượng với Aubaret
và ký kết hòa ước mới lại phải tự ý làm đơn xin Tự Đức
trách phạt và lần nầy thì triều đình Huế đề nghị thẩm
xét từng trường hợp và vai trò của mỗi cá nhân tội phạm
rồi đề nghị án phạt đại hình nịch chức (không làm tròn
nhiệm vụ được giao phó).(ĐNTLCB đã dẫn; trang 96)
Rồi hòa ước Aubaret không được hoàng đế Pháp và chính
phủ Pháp chuẩn nhận, họ quyết định phải chấp hành hòa
ước Nhâm Tuất 1862, phái Aubaret ra Thuận An yêu cầu
Tự Đức và triều đình Huế phải thì hành các điều ước
kết trong hòa ước Nhâm Tuất một cách nghiêm chỉnh, đúng
thời hạn ấn định nhất là phải ra lệnh cho các nhóm kháng
chiến chống Pháp ngưng hoạt động phá rối trị an tại
các vùng đất do Pháp sở hữu hoặc kiểm soát. Sách ĐNTLCB
ghi chép việc nầy như sau:
Bọn Phan Thanh Giản đem việc tâu lên. Vua giao cho
phủ Tôn nhân và đình thần bàn định, đều nói: vua tôi
nước ấy, đã không chịu cho chuộc lại 3 tỉnh; (Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa), nếu lại viết quốc thư để hỏi
thì họ lại cố chấp lời nói trước, sợ có tổn đến quốc
thể chăng? Xin sai quan Thương bạc viết thư gởi cho
đại học sĩ nước ấy là Anh Đê Luy và chủ súy nước Phú
ở Gia Định, thông tin phân trần cặn kẽ, họa có chút
động lòng nghe chăng, sau sẽ dần mưu tính. Vua nói:
bọn khanh liệu thế nào, chả nhẽ theo ước cũ mà nỡ bỏ
đất cát 3 tỉnh ấy ư? Nên tính cho kỹ.
Các đại thần lại nói: nghị lớn về hòa ước, từ trước
đến nay vẫn giữ bí mật, chưa có công bố cho mọi người
nghe biết, sinh ra ngờ vực. Xin do tỉnh thần 3 tỉnh
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, đem sao lục 12 điều ước
cũ, đưa đi treo dán, để hiểu bảo cho sĩ dân đều biết,
khiến đều yên ở làm ăn. Đến như việc thu xếp sau nầy
được thỏa thiện, nên xin thông thả sẽ bàn định. Vua
y cho. Nhân bảo bọn Thanh Giản rằng: ý người Phú như
thế, là muốn dân ta dứt tình với ta, cho nên không nhịn
được sự tức giận nhỏ ấy. Ta đã nhiều lần phái người
mật đi hiểu bảo, nhưng có 1, 2 kẻ hiếu sự không chịu
nghe, đã để cho họ sinh ngờ, lại làm nhiễu hại dân ta.
Vả lại họ đang cố chấp lời ước, để gây hiềm khích, 3
tỉnh bị trơ trọi thì tất đến nguy. Nay dứt tình đi thì
sợ lòng dân ngày thêm lìa tan, nếu không dứt tình tuyệt
đi, thì việc chưa nên, mà lúc cấp khó cứu, nên bất đắc
dĩ phải dứt tình đi, để cho dân 3 tỉnh ấy không còn
trông nhờ vào đâu để bạo động nữa. Đó là đoạn tuyệt
để mà bảo vệ, để làm kế sau nầy nảy nở sẽ mưu toan dần
dần. Bèn xuống dụ cho tỉnh thần 3 tỉnh sức khắp cho
các hạt biết, có ai mượn tiếng là mộ nghĩa, thì không
được vào trong địa giới, mà các quan phủ, huyện một
khi trông thấy tức thời bắt ngay đem giải; nhà dân có
ai chứa chấp, cũng bắt tội như kẻ phạm. (ĐTLCB; sách
đã dẫn; trang 162, 163)
* - nghị lớn về hòa ước, từ trước đến nay vẫn giữ bí
mật, chưa có công bố cho mọi người nghe biết, sinh ra
ngờ vực. Như vậy có nghĩa là nhân dân - ở đây phải chăng
triều đình có ý nói là các nhóm dân quân kháng chiến?
- đã không hay biết gì về hòa ước Nhâm Tuất 1862 và
hòa ước Aubaret ? Tại sao Tự Đức và triều đình lại phải
giữ bí mật không công bố cho mọi người nghe biết? Bởi
vì Tự Đức đang xử dụng âm mưu tiếp tục lợi dụng, khích
động, bao che các nhóm dân quân kháng chiến để vừa đánh
vừa kéo dài hòa đàm, làm cho quân Pháp bị dao động,
mệt mỏi và nản chí để rồi tự động rút đi hoặc chấp nhận
những điều kiện hòa đàm do Tự Đức và triều đình Huế
đưa ra và do đó nếu quân kháng chiến đã biết có hòa
ước rồi thì có thể họ sẽ không còn hăng sai kháng chiến
chống Pháp nữa. Vậy thì nghị lớn về hòa ước phải giữ
bí mật hay nói khác đi Tự Đức và triều đình Huế đã qua
mặt các nhóm dân quân kháng chiến, xem họ chỉ là một
phương tiện lót đường cho để Tự Đức thực hiện mục tiêu
lấy lại những vùng đất mà Tự Đức coi là vùng đất thiên
liêng của tổ tiên dòng họ nhà Nguyễn Phúc.
♠ -Xin sai quan Thương bạc viết thư gởi cho đại học
sĩ nước ấy là Anh Đê Luy và chủ súy nước Phú ở Gia Định,
thông tin phân trần cặn kẽ, họa có chút động lòng nghe
chăng: đây là hình ảnh và thái độ run sợ, tuân phục
của một kẻ chiến bại trước những điều kiện đòi hỏi của
kẻ thắng trận áp đặt ra. Xin sai quan thương bạc viết
thư gửi cho học sĩ nước ấy . . ." Vậy quan thương
bạc lúc đó là ai, và lá thư của quan thương bạc gởi
cho chính quyền Pháp như thế nào ?
Trong một quyển sách có tựa đề Les Débuts de L'installation
du Système Colonial Français au Viet Nam (1858-1897)
bản dịch ra tiếng Việt năm 1994 (Bước Mở Đầu Của Sự
Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897),
nơi trang 117 và trang 118, tác giả sách nầy có đăng
tải một lá thư của bộ ngoại giao trả lời cho La Grandière
sau khi viên soái phủ nầy gởi văn thư chính thức thông
báo cho triều đình Huế biết là chính phủ Pháp không
thừa nhận hoà ước Aubaret. Tác giả gọi là thượng thơ
bộ Ngoại giao Việt Nam và người đứng đầu bộ ngoại giao
lúc đó là Phan Huy Vịnh. Lá thư nầy được tác giả cho
biết xuất xứ của nó nơi chú thích số (17) ở trang 121
như sau: . . . . .(17) Hồi ký và tư liệu châu Á-Quyển
29-tr. 46-48,106,105 & 112. 135-138. 270-272 (tư
liệu chưa xuất bản) và 273-274.
*Cần lưu ý: kiểu trích dẫn của tác giả sách "Bước
Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt
Nam 1858-1897", không thể giúp ích gì thêm cho
người đọc đồng thời còn tạo ra cái cảm giác như là tác
giả muốn giữ làm của riêng mình những tài liệu và tư
liệu mà tác giả đã có dịp nhìn thấy hay đọc được. Lá
thư viết bằng chữ Hán ? Chữ nôm? Chữ quốc ngữ theo mẫu
tự a, b, c ...? hay bằng chữ Pháp? hay đã được dịch
sang tiếng Pháp từ nguyên thủy và nay lại được tác giả
dịch sang tiếng Việt một lần nữa?
Đây cũng là cung cách trích dẫn lơ lửng, ỡm ờ của những
người tự coi mình là sử gia khoa bảng từ trước đến nay,
trong nước cũng như ngoài nước, vì họ biết rằng người
đọc ít có cơ may như họ để có thể với tới các tài liệu
hoặc tư liệu hiếm hoi khó thể truy tìm: cho nên họ chỉ
cần trích dẫn lơ mơ mịt mù như thế để chứng tỏ những
gì họ viết ra là có căn cứ trên giấy trắng mực đen dù
trên thực tế họ đã viết sai, đã cắt bớt hay đã luồn
lách để tạo thành một tài liệu giả dối, để chứng minh
cho một quan điểm hay một biến cố lịch sử bịa đặt. Đọc
giả có thể đọc lại sách của tác giả sách "Bước
Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt
Nam 1858-1897" nơi trang 123 và trang 124 nơi tác
giả trích dịch một đoạn văn của Francis Garnier viết
trong bài tham luận La COCHINCHINE FRANÇAISE en 1864:
đây là một kiểu trích dẫn cắt xén, lắp ráp và rất nhiều
.... mà nếu người đọc có nguyên bản tài liệu của Francis
Garnier thì cũng khó có thể so chiếu để biết được tác
giả đã trích dẫn từ chỗ nào trong bản tham luận đó.
Việc lưu ý đọc giả về những điều vừa kể trên không
nhằm mục đích chứng minh là lá thư của ông thượng thơ
bộ ngoại giao Việt Nam do Phan Huy Vịnh viết và được
trích đăng lại là một tài liệu bịa đặt do tác giả "Bước
Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt
Nam 1858-1897" tạo ra. Sự truy cứu của tác giả
là một khám phá hiếm hoi và mới mẻ rất giá trị, nhưng
nó sẽ có giá trị thuyết phục cao hơn nếu tác giả dùng
mọi khả năng sẵn có của mình chẳng hạn như sao chép
lại nguyên văn, chụp hình . . .để cho thấy được "hình
hài thực sự" của tài liệu mà tác giả đã đưa ra
chứ không nên viết theo kiểu: "tài liệu nầy lưu
giữ trong một cánh rừng rậm ở Phi Châu, ai muốn tham
khảo thì cứ qua bên đó mà lục lạo để tham khảo!"
Sau đây xin chép lại đầy đủ nguyên văn lá thư của thượng
thơ bộ Ngoại giao Việt Nam Phan Huy Vịnh được trích
dẫn nơi trang 117,118 trong sách "Bước Mở Đầu Của
Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897":
Sau khi nhắc lại những điều kiện trong đó Aubaret đã
được phái sang Việt Nam và quyết định của chính phủ
Pháp không phê chuẩn hiệp ước vừa ký kết tại Huế, Phan
Huy Vịnh viết:
". . .Khi hai nước đã thề giảng hòa với nhau,
chúng ta không thể không nói đến vấn đề chuộc lại ba
tỉnh Nam Kỳ, vì lòng dân oán hận chuyện mất nước ...Vì
vậy, chúng tôi phải cởi mở tấm lòng ra với Hoàng đế
nước Pháp, để Người đoái thương với chúng tôi, nếu không
được về mọi mặt, ít nhất về một vài điều. Cũng như những
điều thay đổi hoặc sửa lại trong văn bản hiệp ước là
nằm (nhằm) đáp ứng những yêu cầu phong tục tập quán
và ngôn ngữ nước chúng tôi, sao cho bản hiệp ước trở
nên dễ hiểu đối với mọi người và không bị ai lý giải
ngược lại.
"Còn về vấn đề giảm xuống 40 năm số cống nạp hằng
năm và liên tục, thì chính là chúng tôi yêu cầu như
vậy bởi tài nguyên của cải đất nước tôi dường như không
thể hứa hẹn nhiều hơn vậy được. Làm như vậy, chúng tôi
muốn một lần nữa tạo cho Hoàng đế Pháp một cơ hội mới
để bộc lộ tấm lòng đại lượng bất tận của mình, nhưng
chúng tôi không hề có ý định thay đổi, hoặc xóa bỏ những
điều đã thỏa thuận lúc đầu, giữa hai bên. Ông đại diện
toàn quyền Aubaret đã hiểu điều nầy, cũng như hai vị
quan chức cùng đi với ông ta (18); cả ba người không
hề tỏ ra bất bình; chúng tôi không muốn áp đặt ý muốn
của chúng tôi cho họ, dù rằng bằng cách nào.
"Giờ đây, mọi sự vẫn y nguyên. Nếu các Ngài đồng
ý trả lại nguyên vẹn, hay một phần đất đai ba tỉnh,
thì chúng tôi xin hết lòng cảm tạ. Nếu các Ngài không
thể trả và nếu để tiếp tục có những quan hệ hòa bình,
chúng tôi phải trở lại với hiệp ước 5/6/1862, thì chúng
tôi vẫn biết ơn các Ngài, và sẽ vui lòng làm như vậỵ
"Chính phủ chúng tôi rất chân thực và thủy chung
với những cam kết của mình: không gì có thể làm cho
quan hệ giữa chúng ta bị đoạn tuyệt ....." (19)
*
Nếu để ý một chút thì người đọc có thể thấy được lối
hành văn của nhà nho thượng thơ bộ ngoại giao Việt Nam
Phan Huy Vịnh có vẻ quá Tây chăng? Không lý ông Phan
Huy Vịnh viết thẳng lá thư nầy bằng tiếng Tây? Đây là
một thắc mắc cần được tác giả của sách "Bước Mở
Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt
Nam 1858-1897" làm sáng tỏ.
Dù sao thì lá thư kể trên cũng góp phần cho thấy sự
yếu kém, bất lực và thái độ nhát sợ của vua quan triều
đình Huế trước sự xâm lăng ồ ạt của đoàn quân "bỏ
túi" Tây phương. Ví bằng lá thư nầy do người Pháp
ngụy tạo ra thì nó vẫn có hiệu quả để cho hậu thế hiểu
được rằng người Pháp đã thấy rõ được thực trạng tồi
tệ của vua quan triều đình nhà Nguyễn dưới thời Tự Đức
để rồi kể từ lúc đó họ có thể tự tin về sức mạnh xâm
lược của mình, để lên giọng cao ngạo, tự do thao túng,
bắt chẹt, thực hiện ý đồ bành trướng lãnh thổ thuộc
địa của họ.
♠ -Xin do tỉnh thần 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên, đem sao lục 12 điều ước cũ, đưa đi treo dán, để
hiểu bảo cho sĩ dân đều biết, khiến đều yên ở làm ăn
. . . . . . . . . . . . .Bèn xuống dụ cho tỉnh thần
3 tỉnh sức khắp cho các hạt biết, có ai mượn tiếng là
mộ nghĩa, thì không được vào trong địa giới, mà các
quan phủ, huyện một khi trông thấy tức thời bắt ngay
đem giải; nhà dân có ai chứa chấp, cũng bắt tội như
kẻ phạm:
Đây chính là thời điểm khởi đầu để "nhân dân của
quản Định" tức giận với vua quan triều đình nhà
Nguyễn khi họ biết là mình bị lừa dối lợi dụng và nay
bị bỏ rơi. Phản ứng của họ là gì? Là tự tiện tôn phò
quản Định lên làm đầu lĩnh để tiếp tục những hoạt động
phá rối trật tự trị an trong các vùng do Pháp chiếm
đóng và luôn cả trong các vùng đất Nam Kỳ còn dưới quyền
kiểm soát của triều đình Huế. "Nhân dân" giờ
đây đã trở thành thù địch không những đối với người
Pháp mà luôn cả với quan binh của triều đình Huế nữa.
Trong một tình trạng câm giận sôi sục như vậy- câm giận
sôi sụt vì bị lừa đảo, bị qua mặt, bị lợi dụng, bị mất
quyền tước, bị mất chu cấp lén lút từ phía triều đình
thì không có gì đáng phải ngạc nhiên khi nhân dân lên
án là triều đình khi dân vì sự lên án nầy là hữu lý
và tất nhiên không cần phải có tiếng đồn hay sách vỡ
ghi chép lại sự lên án đó, mà cũng không cần phải cho
hàng chữ triều đình khi dân dính lên lá cờ khởi nghĩa
"tưởng tượng" của ông Trương Định.
Riêng đối với ông Phan Thanh Giản thì "nhân dân''
có thái độ như thế nào? Ông quản Định tự xem mình như
là thay mặt nhân dân để lên án ông Giản và ông Hiệp
bằng cách dán bản án Phan, Lâm mãi quốc lên trên lá
cờ khởi nghĩa tưởng tượng mà người đời sau đã thêu may
cho ông.
Hiện tượng người đời sau thêu may cờ Chính nghĩa cho
các nhân vật lịch sử nổi tiếng không phải chỉ mới xảy
ra từ thời ông Định mà nó đã từng xảy ra trong mọi thời
kỳ người dân Việt Nam chống ngoại xâm nhằm khích động
lòng yêu nước của khối quần chúng. Tuy nhiên, sử sách,
cũng như qua các di vật lịch sử được khai quật từ xưa
tới nay, người ta chưa bao giờ nhìn thấy được hình trạng
thực sự của một lá cờ như thế. Có được thấy chăng những
kiểu cờ tưởng tượng như thế thì hiện nay người ta có
thể thấy trong những dịp lễ hội đình đám kỷ niệm hoặc
trong những tuồng tích giải trí biểu diễn trên sân khấu
mà thôi.
Thực tế nếu ông Quản Định có nổi giận và thù ghét ông
Phan Thanh Giản thì cũng là một điều hữu lý và tất nhiên
vì trước hết ông Giản và ông Hiệp là thành viên trong
tập đoàn cai trị của một triều đình lừa dối, lợi dụng,
bội bạc, dứt tình. Kế đến, ông Giản lại là một một nhân
vật chính yếu đã từng được Tự Đức và triều đình Huế
đặc phái đi kêu gọi Trương Định phải ngưng việc chiến
tranh nhưng Trương Định "cứng đầu" bất tuân
lệnh vua. Ông Định càng tức giận hơn khi ông bị lấy
lại tước quân hàm Lãnh binh mà trước đây Tự Đức đã bí
mật phong cho ông để mua lòng.
*Có một chi tiết tuy rất nhỏ nhưng lại có thể dùng
để cho hậu thế thấy được ông Giản không có bán đứng
những người được sử sách cũ, mới gọi là quân nghĩa dũng
kháng chiến chống Pháp dưới quyền tổng lãnh của Trương
Định:
Phan Thanh Giảng, qui était revenu de Huế avec les
légations, avait repris son poste à Vĩnh Long, dès le
15 Avril (1862), en attendant qu'on lui remit la citadelle;
il fit tout ses efforts - au moins en apparence - pour
ramener la tranquilité, mais le quản Định plus actif,
plus redouté des populations que jamais, se jouait de
lui et de ses conseils. Suivant une tactique inspirée
sans nul doute par la cour elle- même, ce chef de bande
sépara sa cause de celle des mandarins; il pouvait ainsi
sans danger être désavoué par eux, et Phan Thanh Giảng
put écrire à l'amiral que ce Định n' etait qu'un imposteur
qu'il fallait mettre à mort, oubliant d'indiquer l'essentiel:
le moyen de le prendre. (A. Schreiner; sách đã dẫn;
trang 250-251)
Tạm dịch:
Từ Huế, Phan Thanh Giản(g) đã trở về nhiệm sở Vĩnh Long
từ ngày 15 tháng 4 dl (1862) để đợi được giao trả tỉnh
thành ; ông đã cố gắng bằng mọi các - ít ra là tỏ ra
cho thấy - để phục hồì yên ổ, nhưng quản Định lúc nầy
là kẻ năng động, đáng ngại hơn bao giờ hết trong dân
chúng đã khinh nhờn và tỏ ra thách đố với những lời
khuyến dụ của ông Giản. Theo một chiến thuật chắc chắn
là triều đình chủ trương, viên đầu đảng nầy phải tách
rời mục tiêu hoạt động của hắn khác biệt với mục tiêu
hoạt động của các quan binh triều đình; nhờ vậy mà hắn
sẽ không hề hấn gì khi bị các quan binh triều đình chối
bỏ lên án, và do đó Phan Thanh Giản(g) có thể tư văn
cho đề đốc để tố cáo rằng Định là một tên lừa bịp đáng
chết, nhưng ông ông Giản(g) lại quên nói cho biết một
điều thiết yếu là làm sao bắt được tên bịp bợm đó.
Đây nhất định không phải là một lời khen tụng của người
Pháp dành cho ông Giản nhưng phải nói là người Pháp
đã tỏ ra cay cú bực bội vì thái độ khai báo lương lẹo
bao che của ông Giản không chịu điềm chỉ nơi ẩn náo
của các đầu lĩnh quân nghĩa dũng kháng chiến. Ngược
lại, đối với thái độ cứng đầu của ông Định, ông Giản
chỉ báo cáo sự việc lại cho vua Tự Đức và Triều đình
Huế để tìm biện pháp giải quyết. Nói khác đi, hàng chữ
Phan Lâm mãi quốc trên lá cờ khởi nghĩa của ông Định
chỉ có tính cách tương truyền, không có căn bản khoa
học, không có xuất xứ, nguồn gốc và tính xác thực hàng
chữ đó rất đáng dị nghị.
Nay thì việc đã rõ ràng: vua và triều đình đã dứt tình
bỏ thí dân quân kháng chiến, mặc cho quân xâm lược càn
quét truy kích. Không những thế còn "tiếp tay"
cho giặc Pháp bằng cách ra lệnh cho các quan phủ, huyện
một khi trông thấy tức thời bắt ngay đem giải; nhà dân
có ai chứa chấp, cũng bắt tội như kẻ phạm.
Như vậy, việc ông Trương Định lên án triều đình Huế,
lên án ông Giản và ông Hiệp tất nhiên là phải có nhưng
đây chỉ là việc riêng ông Định và nhóm dân quân kháng
chiến của ông lên án chứ không phải toàn dân, toàn quân
lên án như nhiều dư luận lạm dụng tên tuổi ông Định
đã nêu lên.
Điều cần lưu ý là khi nhóm kháng chiến của ông Định
tách rời và lên án triều đình thì chính nghĩa của ông
Định đã thay đổi: ngày trước ông chen vai sát cánh với
triều đình nhà Nguyễn để chiến đấu chống quân ngoại
xâm Tây phương nhưng bây giờ thì ông Định và nhóm kháng
chiến của ông trở thành một nhóm giặc chòm, giặc xóm
giống như mấy đám giặc thổ phỉ người Trung Quốc Cờ Đen,
Cờ Vàng đang tung hoành làm chủ hầu hết các vùng lãnh
thổ ở Bắc Kỳ. Cứ thử tưởng tượng nếu ông Định và thủ
hạ của ông đánh đuổi được hết quân Pháp và chiếm lĩnh
các vùng đất Nam Kỳ Hạ thuộc Pháp thì tình thế sẽ ra
sao? Ông Định sẽ quỳ gối xuống để dâng trả lại đất cát
cho Tự Đức chăng?
Và như trên đã xét qua, ông Giản với ông Hiệp làm gì
có thành quách, đất cát để mà bán cho quân xâm lược
Pháp: họ chiếm đất, chiếm thành của nước Đại Nam như
đi chơi vào chỗ hoang địa để rồi ông Giảng và ông Hiệp
phải thay mặt Tự Đức và tập đoàn quan lại nhút nhát
của triều đình Huế chạy đến cầu xin kẻ xâm lược cho
chuộc lại những vùng đất thiêng liêng riêng tư của ông
hoàng đế Tự Đức vô cùng hiếu đạo thuộc dòng dõi nhà
Nguyễn Phúc
Chương
32
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ TƯ:
Sau khi Pháp xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây và ông Giản tự
xử, vào tháng 9 âl năm Đinh Mão (1867), Tự Đức khiến phủ
Tôn nhân và đình thần nghị công tội Nguyễn Tri Phương,
Phan Thanh Giản. Tự Đức ra dụ chỉ rằng: "Xứ Nam Kỳ
6 tỉnh, khi đầu bởi tại Nguyễn Tri Phương, tôn thất Cáp,
Phạm Thế Hiển và Nguyễn Bá Nghi liệu phòng không hết sức;
khi giữa bởi tại Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp (Hiệp)
nghị hòa khinh bỏ; khi sau lại bởi tại Phan Thanh Giản,
Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản đi sứ không được việc gì;
khi sau hết lại bởi tại bọn Phan Thanh Giản, Trương Văn
Uyển, Nguyễn Hữu Cơ và Trần Hoán nhơn tuần nhác nhớn nên
đến nỗi mất 6 tỉnh ấy. Truyền lập tức nghị tội bọn ấy,
dâng lên ta sẽ đoán định". (Sử Quốc Triều Chính Biên
Toát Yếu (viết tắt SQTCBTY); in dịch ban cấp các trường
học; năm 1925; trang 362).
♠ Đến tháng 11 âl năm Mậu Thìn (1868) đình thần tâu
công tội Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Bá Nghi, Võ Trọng
Bình. Sớ tâu gồm có 2 tập; 1 tập nghị xử tội về việc
mất 3 tỉnh Nam Kỳ, 1 tập nghị thương công về việc dẹp
yên giặc Bắc Kỳ. Tự Đức cho rằng đình nghị chưa được
minh chánh mới sửa định lại rằng: Tri Phương và Bá Nghi
cho khỏi giáng nhưng đình phong tước; Phan Thanh Giản
và Lâm Duy Hiệp tội "trảm giam hậu đời đời";
Võ trọng Bình xử trí giặc hàng không xong, cũng đình
phong tước. (SQTCBTY; đã dẫn; trang 370).
Sách ĐNTLCB cho thấy rằng Tự Đức và triều đình đã đổ
hết tội lỗi cho ông Giản về việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ,
kết tội: "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội"
và
nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên
ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu". (ĐNTLCB;
tập XXXI; Hà Nội 1974; trang 269).
♠ Năm 1886, vua Đồng Khánh lại khai phục nguyên hàm
cho ông Giản và khắc lại tên ông ở bia tiến sĩ: cho
ông Nguyễn Tri Phương dự thờ trong miếu Hiền lương,
Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp (Hiệp), Trương Văn Uyển
đều được khai phục nguyên hàm. (SQTCBTY; đã dẫn; trang
436)
♠ Điều cần lưu ý là sách Quốc Triều Chính Biên Toát
Yếu của sử quán triều Nguyễn in dịch vào năm 1925 đã
không viết gì về việc Tự Đức lên án kết tội "xét
phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án
"truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến
sĩ. Tại sao? Phải chăng đây là một trong những chuyện
xấu che tốt khoe không được phép gợi lại việc làm sai
trái của tiên nhân dòng họ nhà Nguyễn?
♠ Một điểm khác nữa cần lưu ý là dù tiếng tâm và vinh
dự của ông Giản đã được phục hồi từ niên hiệu Đồng Khánh
thứ nhứt (1886) nhưng vì Đồng Khánh được người Pháp
tấn phong lên làm vua (lên ngôi vào tháng 8 âl năm Ất
Dậu / 14 tháng 9dl năm 1885) trong khi vua Hàm Nghi
vẫn tiếp tục truyền hịch cần vương chống Pháp ở mạng
Quảng Bình khiến dư luận lúc đó và về sau nầy cho rằng
Đồng Khánh chỉ làm bù nhìn tay sai của người Pháp. Chính
vì vậy mà việc Đồng Khánh khai phục nguyên hàm và khắc
tên của ông Giản ở bia tiến sĩ không có một tác dụng
thuyết phục mạnh mẽ đối với các phong trào chống Pháp
vào thời đó cũng như sau nầy.
♠ Theo A.Schreiner, tác giả sách Abrégé de l'Histoire
d' Annam phát hành tại Sài Gòn năm 1906, thay vì phải
công nhận những hy sinh vô bờ bến của ông Giản thì Triều
đình Huế lại bôi bẩn danh phận của ông. Sắc chỉ của
Tự Đức ra lệnh nghị tội ông Phan Thanh Giản cho thấy
rõ sự sự mù quáng cứng ngắt của các tầng lớp lãnh đạo
triều đình nhà Nguyễn; triều đình nầy chỉ biết đỗ lỗi
cho những thuộc cấp nhưng không biết được rằng chính
sự ngu dốt của tập đoàn lãnh đạo ở Huế cùng với những
định chế tồi tệ của đất nước mới chính là nguy cớ gây
ra mọi điều khốn khó:
A leur retour dans la capitale, les employés des province
occidentales avaient tous été degradés. Quant à Phan
Thanh Giảng, au lieu de reconnaitre l'immensité de son
sacrifice, la cour déshonnora officiellement sa mémoire.
Voici le décret par lequel il est frappé, on ne fait
qu'y remarquer l'aveuglement constant de la cour de
Huế; invariablement ell s'en prend aux chefs alors que
son ignorance propre et les institutions défectueuses
du pays seules sont cause de tout la mal.(A.Schreiner;
sách đã dẫn; trang 290,291).
A.Schreiner cũng cho rằng chính vì sự kết tội ông Phan
Thanh Giản lần nầy của triều đình Huế theo lệnh của
Tự Đức đã khiến cho các con trai của ông Giản nổi loạn
chống lại người Pháp; bởi vì lương tâm sẽ không để cho
những người con nầy được yên ổn và vì tự ái và sĩ diện
họ sẽ hy sinh tất cả để tái tạo lại hình ảnh của người
cha (trong cái nhìn của người dân An Nam), và làm thế
nào mà họ có thể nổi loạn được như vậy nếu không phải
là để đền bù lại điều tổn hại mà triều đình đã mạo xưng
gán tội cho ông Giản. (A.Schreiner; sách đã dẫn; trang
292, 293).
VII /- NGƯỜI PHÁP VÀ ÔNG PHAN THANH GIẢN
♠ Người Pháp bắt đầu biết tên tuổi ông Phan Thanh Giản
và ông Lâm Duy Hiệp khi hai ông vào Sài Gòn để khai
diễn cuộc thương thuyết với họ vào 26 tháng 5 năm 1862.
Ngày 5 tháng 6 dl năm 1862, ông Giản và ông Hiệp đã
ký kết hòa ước Nhâm Tuất (1862). Ngày hôm sau, Bonard
đã cho phổ biến thông cáo cho các đầu lĩnh quân nghĩa
dũng kháng chiến biết rằng hòa ước đã được ký kết, yêu
cầu họ phải tuân thủ và ngưng chiến đấu. Triều đình
Huế cũng đã cắt cử Phan Thanh Giản đến tỉnh Vĩnh Long
và Lâm Duy Hiệp đến tỉnh Bình Thuận để cố gắng hiểu
dụ quân kháng chiến ngưng các hoạt động quấy rối. Tuy
nhiên người Pháp cho rằng hai ông đã được triều đình
Huế giao phó nhiệm vụ giả bộ kêu gọi quân kháng chiến
ngưng tiếng súng nhưng phải làm ngơ và ngầm khuyến khích
họ tiếp tục đánh phá, và mặc dù ông Phan Thanh Giản
là một con người thức thời, thấy xa hiểu rộng, có một
tâm hồn cao đẹp đã nhận thức được rằng tiếp tục chiến
đấu chống lại người Pháp cũng vô ích mà thôi. Phải chăng
ông Giản đã có thực tâm tái lập hòa bình nhưng khốn
thay đất nước của ông lại không muốn như thế? Ông đã
cực lực can ngăn viên thống soái không nên quá hấp tấp
và cam kết là ông sẽ khuyến dụ được các nhóm kháng chiến
tuân thủ các điều ký kết trong bản hòa ước Nhâm Tuất.
(A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 246, 247). Và đó là
tình hình rối ren ở Nam Kỳ Hạ ngay sau khi hòa ước Nhâm
Tuất vừa được ký kết nhưng chưa được chính phủ hai bên
phê chuẩn.
*
Sau khi tạo dựng các hạ tầng cơ sở cần yếu cho việc
áp dụng chính sách thuộc địa của người Pháp trên các
vùng lãnh thổ đang chiếm đóng và sau khi được tăng viện
thêm quân binh từ Thượng Hải (Trung Quốc), Bonard đã
tung ra những chiến dịch hành quân bình định, càn quét
các nhóm quân kháng chiến và quan trọng hơn hết chiếm
đóng tỉnh Gò Công - nơi chôn nhao cắt rún của bà mẹ
sinh ra Tự Đức - mà hiện thời là một trung tâm đầu não
của kháng chiến quân để tái lập trật tự trị an và tạo
áp lực với triều đình Huế trong tiến trình phê chuẩn
hòa ước Nhâm Tuất 1862. Kết quả là nghi thức trao đổi
hoà ước Nhâm Tuất được phê chuẩn đã tiến hành long trọng
tại Huế vào hai ngày 13 và 24 tháng 4 dl năm 1863 để
rồi ngay sau đó Tự Đức đã cắt cử Phan Thanh Giản cầm
đầu một phái đoàn sứ sang Pháp để mưu tính việc chuộc
lại cho bằng được bằng mọi giá các vùng đất ở Nam Kỳ
Hạ đang nằm trong tay của người Pháp.
♠ Người Pháp ở Paris và ông Phan Thanh Giản
Trong chuyến đi nầy, vua quan triều đình Pháp đã có
một thái độ kính trọng và khâm phục về cung cách đối
ứng của Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản: bài đọc
diễn văn của ông trầm bổng, khẩn cấp, trân trọng, rung
cảm, trách cứ đã gây xúc động cho nhiều người trong
buổi tiếp kiến tại điện Tuileries.
Lễ phục uy nghi và ngoạn mục của sứ đoàn đã làm cho
mọi người trầm trồ chóa mắt hết lời khen ngợi.
(Les costumes de cérémonie étranges et somptueux des
ambassadeurs firent sensation. D’une voix grave et tremblante
d’émotion, et en un récitatif plaintif et à moitié chantant,
Phan-Thanh-Gian prononça son discours aussitôt traduit
par M. Aubaret. Le spectacle de ce beau et noble vieillard,
pleurant en quelque sorte les malheursde sa lointaine
patrie, causa une impression profonde, et plus d’une
des dames de la suite impériale essuya une larme furtive.(Bài
viết "L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après
les documents français" của A Dalvaux đăng trên
Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/BAVH 1-3/ 1926 ; trang 73).
En un mot, le succès de la Mission annamite paraissait
complet, vuque la Cour de Hué obtenait, selon son désir,
la reprise des négociations à peu près sur le pied du
statu quo ante.
("L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après
les documents français" của A Dalvaux đăng trên
Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/BAVH 1-3/ 1926 ; trang 74).
Tạm dịch: Nói tóm lại, đoàn sứ An Nam được xem như
là đã thành công hoàn toàn, nếu so với mong ước của
triều đình Huế là chỉ muốn được thương lượng trở lại
về một tình trang đã trở thành thự tế.
*
Phái đoàn sứ Phan Than Giản về đến Sài Gòn ngày 18 tháng
3 dl năm 1864. Đi theo phái đoàn về Sài Gòn còn có phó
hạm trưởng Boresse của Pháp được cử làm thanh tra sự
vụ người bản xứ. Tất cả đều được thống đốc La Grandière
và các người Pháp ở Sài Gòn tiếp đón trọng thể và dù
có bất mãn lo âu nhưng họ đã có thái độ kính trọng và
khâm phục một cách đặc biệt đối với ông Phan Thanh Giản
vì cung cách dấn thân phục vụ của ông cho đất nước Đại
Nam.
Tờ báo Le Courier de Saigon (số ra ngày 22 tháng 3
dl năm 1864) đã viết nhiều đề mục ca tụng phái đoàn
sứ Đại Nam và mô tả lại những buổi tiệc khoản đãi, những
cuộc du ngoạn thăm viếng của phái đoàn quanh vùng Sài
Gòn-Chợ Lớn đang đổi mới. Tờ báo có đoạn viết:
Ngày hôm sau, phái đoàn vào Chợ Lớn: họ đi xem các cầu
cống, các công trình quy mô chỉnh trang các bến cảng
và các đường phố của khu vực rộng lớn nầy.
Ba vị đại sứ đi bộ với hai quan chức người Pháp hộ tống,
họ không có lọng che (lọng che là một hình thức biểu
hiệu uy quyền của họ) và khi đi ngoài trời họ không
ngần ngại trú nắng dưới những cái dù che bình thường
đơn sơ. Một đám đông dân chúng bao quanh phái đoàn nhưng
không có ai tỏ dấu hiệu la chộ vì hình ảnh giảm cấp
quyền uy nầy.)
("L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après
les documents français" của A Dalvaux đăng trên
Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/BAVH 1-3/ 1926 ; trang 76).
♠ Người Pháp so sánh ông Phan Thanh Giản với
ông Nguyễn Tri Phương
Sau vụ bạo loạn của nhóm Đông Sơn Thi Tửu (vụ Hồng Bảo/
16-6-1866) ngay tại Huế, Tự Đức cảm thấy tình hình an
ninh bất ổn cho nên đã ra lệnh triệu hồi viên tướng
tài ba được mọi người kính trọng là Nguyễn Tri Phương
đang thống lãnh việc hành quân diệt trừ thảo khấu ở
Bắc Kỳ về phụng mạng tại kinh đô. Nhân viết lại việc
nầy, người Pháp đã so sánh và đánh giá hai ông Giản
và ông Phương như sau:
Tự Đức, ne sentant plus en sécurité, arrivait à se
méfier de tout le monde. Il rappela du Tonkin Nguyễn
Tri Phương qui était universellement respecté. Le vaillant
mandarin revint à la tête d'un corps de troupe ayant
pour tout bagage personnel quelques vêtements, usés
par la campagne, qu'un soldat portait déployés au bout
d' une lancẹ Nguyễn Tri Phương démontrait ainsi que
la guerre ne l' avait pas enrichi, et le désintéressement
de ce vieux militaire était aussi réel que celui de
son ancien second Phan Thanh Giảng.
Ces deux hommes ont fournis des exemples de vertu civique
et militaire que l'histoire des peuples d' Occident
ne denierait pas et qu'on est heureux de pouvoir signaler
au milieu des turpitudes et de la duplicité des mandarins
annamites. Nous remarquons toutefois l'extraordinaire
dissemblance d'idées entre Phan Thanh Giảng et Nguyễn
Tri Phương. Le premier, frappé de la puissance de notre
savoir et de notre civilisation, aurait voulu amener
ses compatriotes à suivre nos enseignements. Le second,
persuadé de la supériorité de l 'éducation chinoise,
n' admettait aucune compromission avec la science des
hommes d' Occident. Phan Thanh Giảng, était le représentant
du progrès éclairé; Nguyễn Tri Phương, celui du conservatisme
irréductible; tous deux était convaincus, tou deux était
honnêtes. (A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 282,283)
Tạm dịch: Tự Đức, vì thấy rằng tình hình an ninh bất
ổn cho nên không còn tin cẩn với bất cứ ai cho nên mới
triệu hồi ông Nguyễn Tri Phương đang được trọng vọng
kính phục khắp nơi từ Bắc kỳ hồi kinh. Vị tướng dũng
cảm dẫn đâu đoàn quân trở về với một bó hành trang áo
quần cá nhân sờn cũ qua suốt thời gian chiến dịch và
do một quân binh hộ vệ xách treo trên đầu một ngọn giáo.
Nguyễn Tri Phương cho thấy là chiến tranh không giúp
ông giàu sang hơn và thái độ bất cần phú quý của vị
lão quan nầy tỏ rõ thực sự không thua gì so với vị quan
phụ tá cũ của ông là Phan Thanh Giản(g).
Hai vị quan nầy đã cung cấp những mẫu mực về đức hạnh
của một người công dân cũng như đạo đức của một người
quân nhân, những mẫu mực đạo đức mà người Tây phương
không thể nào chối bỏ không thừa nhận và người ta thật
vui sướng vì đã tế nhận ra được những mẫu mực đó giữa
những sự ô nhục và sự giả trá lật lọng của các hàng
quan lại người An Nam. Song le, chúng ta vẫn nhận thấy
được sự khác biệt lớn lao về mặt tư tưởng giữa Phan
Thanh Giản(g) và Nguyễn Tri Phương. Ông Phan Thanh Giản(g)
thì bị khắc sâu ấn tượng về năng lực hiểu biết và nền
văn minh của chúng ta cho nên ông dã mong muốn hướng
đưa đồng bào của ông đi theo những đường hướng giáo
dục của chúng ta. Còn ông Nguyễn Tri Phương thì lại
tin tưởng tính ưu việt của nền giáo giục Trung Hoa cho
nên ông nầy đã không hề chịu chấp nhận để cho mình bị
lung lạc hư hỏng bởi nền khoa học của người Tây phương.
Ông Phan Thanh Giản(g) là đại diện cho sự soi sáng tiến
bộ. Còn ông Nguyễn Tri Phương là đại điện cho chủ nghĩa
thủ cựu không khoan nhượng. Cả hai người đều tự tín;
cả hai người đều chính trực.
Người Pháp với cái chết của ông Phan Thanh
Giản
♠ De la Grandière
"Phó Đề đốc, thống đốc kiêm tổng tư lệnh quân
lực Nam Kỳ, gởi đến ông trưởng nam của Ngài Phan Thanh
Giảng phụ chính khâm sai đại thần của Vương quốc An
Nam.
tại Vĩnh Long.
Tôi rất là đau buồn biết được tin về cái chết của Ngài
Phan Thanh Giảng thân phụ của ông.
Vương quốc An Nam, mà trong đó ngài Phan Thanh Giảng
là một thành viên lỗi lạc hơn hết, đã đánh mất đi một
trong những phần vinh quang, trí thức và tình cảm sâu
đậm quý mến của vị quan lão thành nầy, nhưng những điều
đó vẫn đang lưu lại trong trí óc của tôi cũng như trong
trí óc của người Pháp một cách bền vững hơn là sự oán
ghét của những quân thù của vị quan lão thành ấy.
Ngoài phụ thân của ông trưởng nam ra, nơi triều đình
Huế không còn ai nhận thức được những điều gì cần phải
thực hiện để bảo đảm cho người dân có thể sống hạnh
phúc và chính là vì vấn đề có liên hệ đến cảm tính cùng
với đức tự trọng đã khiến cho vị quan lão thành nầy
không còn thiết sống dưới dự chi phối của những hậu
quả chính trị sai trái và dẫy đầy trách nhiệm do chính
quyền của triều đình nước An Nam tạo ra.
Những biểu lộ chính thức về lòng kính mến và tình bằng
hữu của tôi trong lá thư nầy ông cần phải lưu giữ lại
trong gia tộc như là một bằng chứng về những cảm tình
mà người Pháp sẽ giữ riêng cho phụ thân đáng kính của
ông và gia tộc của ông ấy.
Ông hãy tin rằng tôi sẽ cố gắng bằng mọi phương cách
mà tôi có được để đảm bảo cho con cháu của vị quan lão
thành có được những quyền lợi và chức vị thích hợp với
họ trong tương lai.
Xin ông hãy chấp nhận lòng kính trọng rất đặc biệt của
tôi.
Sài Gòn ngày 15 tháng 10 dl năm 1867
Ký tên: De la Grandière"
(Xin đọc lại nguyên văn lá thư nầy nơi trang 285)
♠ Paulin Vial, Giám đốc Nha Nội Vụ Nam Kỳ:
Cái chết của Phan Thanh Giảng đã làm vinh danh co một
nếp sống trong sạch và cần mẫn....Trong 5 năm, ông là
người khôn ngoan,sáng suốt hơn cả trong số những người
An Nam, ông đã không ngừng nghỉ chống lại một cách kiên
quyết ảnh hưởng của người Pháp chúng ta, có lúc thỏa
hiệp với những thành kiến và ảo tưởng của những đồng
hương của ông để mong đợi rằng người Pháp chúng ta sẽ
bỏ cuộc về việc bảo đảm vật chất do chính lời tuyên
bố của Tự Đực chấp nhận quyền tự do của 500,000 tín
đồ gia tô đang được chúng ta che chở; tuy nhiên khi
được tiếp xúc, ông đã chịu đón nhận nét thu hút về phong
tục tập quán của người Pháp chúng ta, nhất là những
tư tưởng về tôn giáo. Rốt cuộc rồi ông biết được rằng
chúng ta có một đẳng cấp xã hội cao, linh hoạt hơn,
khai phóng hơn và độ lượng so với những quốc gia phương
Đông; ông biết giá trị những lợi ích của một nền thương
mại tự do và giá trị của sự hoà nhập những nền khoa
học giữa các dân tộc và bởi vì ông yêu thương những
người đồng bào của ông, vì muốn cho họ được hạnh phúc
và càng lúc càng cảm thấy tin tưởng về tương lai của
họ vì thế ông đã để mặc cho đồng bào của ông tự giải
quyết lấy số phận của họ, nhưng không phải là ông không
còn vướng bận hối tiếc gì về những điều trong quá khứ,
trong thâm sâu của tâm hồn thì ông vẫn còn đang lưỡng
lự giữa một bên là cuộc sống mới đang tác động mạnh
mẽ vào năng trí của ông và một bên là những hoài niệm
xa xưa của con tim lôi kéo ông trở về những nguyên lý
mà ông phải theo trong thời xuân trẻ. (Trích dẫn của
A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 288, 289).
♠ Ed Wyts, hạm trưởng khu trục hạm tham dự trận chiến
xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây :
( Trích sao từ tập san Revue maritime et coloniale
/ Bộ Hải Quân và Thuộc Địa/Ministère de la marine et
des colonies . Quyển 1, số 1 (1861, janv./févr.)- Tập
128, số 414 (1896, mars); trang 914, 915). Nhà phát
hành : Paris : Librairie de L. Hachette, 1861-1896)
Tạm dịch:
Vĩnh Long không phải là một mặt trận xa lạ đối với
người Pháp chúng ta. Tỉnh thành nầy, mà chúng ta đã
chiếm được và ngay sau đó thuộc về chúng ta bằng một
hiệp ước, hồi trước đây đã từng kháng cự mạnh mẽ chống
lại chúng ta. Vì vậy chúng ta đã chờ đợi lần nầy sẽ
phải là một trận chiến ác liệt. Vậy mà không thấy có
một phát súng trọng pháo nào và chiếc tàu chiến Thành
đô Huế của người An Nam vẫn câm lặng thả neo nằm yên
một chỗ như không có gì xảy ra. Dĩ nhiên là có một vài
ông quan lớn của triều đình đã vội vã nhảy lên những
chiếc thuyền mành chèo bơi đi thật nhanh và đã bị chúng
ta bắt được.
Phan-tan-gian (Phan Thanh Giản) tự mình ra hộ tống hạm
Ondine mang hiệu kỳ của đề đốc ủy nhiệm.
Sau cuộc gặp mặt giữa nầy, chúng ta đã đi vào thành
với súng trong tay ngay lúc đó chúng ta đã chiếm lấy
thành và quân binh của chúng ta liền được phối trí ngay
lập tức để canh giữ các kho lúa gạo và đến nay các kho
nầy được dùng như là những trại quân của chúng ta.
Đề đốc đã chính thức đến tiếp thâu sự chiếm hữu vào
buổi chiều, từ bến tàu đi vào thành, các đội binh xếp
thành hàng rào hai bên đường, và hai đại đội lính pháo
thủ hải quân đi theo hộ vệ, chia thành từng nhóm đội
hình.
Đề đốc đến tận trú dinh của quan kinh lược và được quan
kinh lược đứng đón từ cổng dinh.
Tôi đã từng nhìn thấy Phan-tan-gian tại bộ chỉ huy hải
quân ở Sài Gòn. Tôi đã từng cảm thấy xúc động vì về
dáng vẻ thanh tao và tươi cười của ông khi ông vuốt
ve âu yếm một trong những đứa con của viên thống soái,-
một đứa bé gái dễ thương-đang trố mắt sửng sốt, lạ lùng
nhìn ông trong xiêm y nhung gấm màu xanh và bị chới
với mất hướng vì cái nét trịnh trọng đông phương của
ông.
Bây giờ thì cái dáng vẻ tươi vui của một vị đại quan
đã biến mất và tôi thấy ông già đi, xanh xao và sầu
muộn.
Và kể từ đó tôi đã không bao giờ còn được gặp lại ông.
Về sau, khi tôi quay trở lại Vĩnh Long thì ông không
còn nữa. Ông đã ra đi để gặp lại tổ tiên, nằm an nghỉ
bên cạnh họ trong một ngôi làng ở vùng Nam Kỳ Hạ, nơi
đó đề đốc ủy nhiệm de la Grandière đã ra lệnh cho thi
hành việc tống táng di hài của ông theo lễ nghi quân
cách rất long trọng.
Người ta nói lại rằng ông tự uống thuốc độc quyên sinh,
và trước khi chết ông đã gọi các trai của ông đến đứng
quanh và kêu nài họ đừng bao giờ dùng súng đạn@ để chống
lại nước Pháp.
Dù đã được trối trăn dặn dò như thế, sau khi ông chết,
các người con trai của ông đã tự ý mình cầm đầu những
nhóm nổi dậy.
*
Chú giải & khảo luận:
@ Đừng bao giờ dùng súng đạn để chống lại nước Pháp:
Câu viết nầy không thể hiểu là không được chống lại
nước Pháp, nhưng đối với riêng chúng tôi hiểu ý câu
nầy có nghĩa là nước Đại Nam không có đủ khả năng quân
sự để có thể chống lại nước Pháp nhưng phải dùng mưu
lược để chống lại họ. Như vậy có thể là ông Giản đã
khuyên con trai mình vẫn cứ tiếp tục chống Pháp nhưng
không phải chống Pháp bằng còn đường vũ lực. Phải chăng
đây là một lời trối khéo léo để qua mặt người Pháp lúc
đó đang bao quanh trong những giờ phút cuối cùng của
đời ông. Trước mặt họ, ông Giản không thể nào nói một
cách tách bạch rằng "các con phải tiếp tục chống
lại người Pháp nhưng vì không thể nào thắng họ bằng
súng đạn được cho nên các con phải dùng mưu chước khác".
Mưu chước khác ở đây tức là phải noi theo và bắt chước
sự văn minh tiến bộ của người Pháp rồi dùng sự văn minh
tiến bộ đó để đánh trả lại bọn họ.
Vậy các con trai của ông có thấu hiểu lời trối khéo
léo của ông hay không? Có thể là họ hiểu ý của ông muốn
họ cứ tiếp tục chống Pháp nhưng họ lại thực hành trái
ngược với lời khuyên của ông không nên dùng phương tiện
quân sự yếu kém của mình để chống lại quân xâm lược
và vì thế họ cũng bị sụp đỗ thất bại.
VIII/ - NHỮNG NHÂN VẬT
LỊCH SỬ VIỆT NAM VỚI CÁI CHẾT CỦA ÔNG PHAN THANH GIẢN
♠ Điếu văn của ông Phạm Phú Thứ:
"Một thân thờ ba triều, làm quan hơn bốn mươi
năm, già hơn bảy mươi tuổi, rất từng trải kinh nghiệm,
được tôn trọng và tin cậy trong triều cũng như trong
nhân dân. Học rộng phẩm cách tuyệt vời, dù hoàn cảnh
trái ngược đến bao nhiêu, ngài cũng không bao giờ là
người hại nước. Dù hoàn cảnh ngang trái thế nào, ngài
vẫn giữ trọn tấm lòng cao thượng.
"Những bọn hèn đứng thấp chẳng thấy gì, la hét
nhảy nhót như mê như say, nào có biết đâu tình thế nước
nhà.
"Tiếc cho ý chí của ngài không được thực hiện."
(Nguyễn Văn Ba; Phan Thanh Giản hay Cuộc Hòa Bình dang
dở Pháp Việt 15-07-1864; báo Đại Chúng số 116 ; ngày
15/03/2003 đăng trên mạng lưới internet http://www.daichung.com)./)
♠ Điếu văn của Nguyễn Đình Chiểu,
tác giả Lục Vân Tiên :
Non nước tan tành hệ bởi đâu ?
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao Châu.
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu.
Ải Bắc ngày trông tin điệp vắng,
Thành Nam đêm lắng tiếng quyên sầu.
Minh sinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thâu.
(Nguyễn Văn Ba; Phan Thanh Giản hay Cuộc Hòa Bình dang
dở Pháp Việt 15-07-1864; báo Đại Chúng số 116 ; ngày
15/03/2003 đăng trên mạng lưới http://www.daichung.com)./
).
♠ Sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện:
"Thanh Giản là người ngay thực, giữ lòng liêm khiết,
làm quan cần mẫn, thận trọng, gặp việc dám nói. Trải
thờ ba triều, vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ tiết
đi Nam, thế không làm sao được, biết tội tự uống thuốc
độc chết. Thực là ở vào chỗ người ta khó xự xem tờ sớ
để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài lời nói"
(Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện; tập 4; Huế 1993; trang
46)
♠ Sách Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu:
"Năm Đinh Hợi, niên hiệu Đồng Khánh, năm đầu (1886),
tháng 11 âl, cho Nguyễn Tri Phương dư, thờ trong miếu
Hiền Vương, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp, Trương Văn
Uyển đều được khai phục nguyên hàm"
(Sử quán triều Nguyễn; Sử Quốc Triều Chính Biên Toát
Yếu; bản dịch; 1925; trang 432),
♠ Trần Trọng Kim/ VIỆT NAM SỬ LƯỢC :
"Tháng 6 năm đinh -mão (1867) là năm Tự Đức thứ
20, thiếu tướng De la Grandière hội hơn 1,000 ở Mỹ-tho,
rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh-long, An-giang và Hà-tiên.
Ông Phan thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các
quan đành chịu nộp thành trì cho khỏi sự tai hại, rồi
ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày
ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan chức gì ở Nam
Kỳ.
Bấy giờ ông đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật
là thanh liêm nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến,
biết thế mình không làm gì được, đem tấm lòng son sắt
mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi."
(Trần Trọng Kim; Việt Nam Sử Lược; quyển II; trang 265;
Bộ Giáo Dục-Trung Tâm Học Liệu xuất bản; lần thứ nhứt;
1971; Sài Gòn.
*Lưu ý: Trần Trọng Kim trước đây đã viết cuốn Việt-Nam
Sử-Lược từ thời Hồng Bàng (2879) trước Tây-lịch kỷ-nguyên
cho tới năm 1902 sau Tây-lịch (xin đọc Trần Trọng Kim;
sách đã dẫn; đoạn cuối trang 347) và được in xuất bản
lần thứ nhứt; Trung Bắc Tân Văn; Hà Nội ;1920.
* Chi tiết về việc xuất bản lần thứ nhứt sách VNSL
ở Hà Nội vào năm 1920 có các điểm sau đây cần lưu ý:
1/-Tạp chí Quê Hương điện tử đăng rải cuốn “Việt Nam
sử lược” của Trần Trọng Kim viết vào năm 1919, in lần
thứ nhất năm 1921, để Bạn đọc tham khảo. ...(ww.quehuong.vnn.vn/so317-2005/uni_lichsu.htm
- 210k - Cached - Similar pages ):
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, in lần thứ nhất.
Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội 1920
Tạp chí Quê Hương trên internet
của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài
Tổng biên tập: Đặng Trần Phong
Thư ký số này: Thu Lê
Số ra ngày 4/3/2005 (317)
VIỆT NAM SỬ LƯỢC Trần Trọng Kim
LỜI GIỚI THIỆU CỦA BAN BIÊN TẬP TẠP CHÍ QUÊ HƯƠNG
Sau khi đăng rải cuốn “Tóm tắt Niên biểu lịch sử Việt
Nam” do Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức biên soạn và cuốn
“Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại” của Tiên
Đàm Nguyễn Tường Phượng, bắt đầu từ số này, tạp chí
Quê Hương điện tử đăng rải cuốn “Việt Nam sử lược” của
Trần Trọng Kim viết vào năm 1919, in lần thứ nhất năm
1921, để Bạn đọc tham khảo. Một số chỗ có chữ "(BT)"
là do QH biên tâp.
Đây là cuốn Lịch sử Việt Nam đầu tiên được viết bằng
chữ quốc ngữ với phương pháp viết mới khác hẳn những
cuốn Việt sử bằng chữ Hán Nôm xưa kia, tác giả lúc đó
là một nhà giáo có tên tuổi.
Cho tới nay, cuốn Việt Nam sử lược vẫn được đánh giá
là ngắn gọn, sinh động và dễ đọc dễ nhớ. (http://www.quehuong.vnn.vn/so317-2005/uni_lichsu.htm
)
2/- Như vậy có thể suy định rằng: sách VNSL của Trần
Trọng Kim đã có ở miền Bắc nước Việt Nam kể từ năm 1920.
Sách nầy được Bộ Quốc Gia Giáo Dục ở Sài Gòn xuất bản
lần thứ nhứt vào năm 1971.
*
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ NĂM :
Sau khi Pháp xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây và ông Giản tự
xử, vào tháng 9 âl năm Đinh Mão (1867), Tự Đức khiến
phủ Tôn nhơn và đình thần nghị công tội Nguyễn Tri Phương,
Phan Thanh Giản. Tự Đức ra dụ chỉ rằng: "Xứ Nam
Kỳ 6 tỉnh, khi đầu bởi tại Nguyễn Tri Phương, tôn thất
Cáp, Phạm Thế Hiển và Nguyễn Bá Nghi liệu phòng không
hết sức; khi giữa bởi tại Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Thiếp (Hiệp) nghị hòa khinh bỏ; khi sau lại bởi tại
Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản đi sứ
không được việc gì; khi sau hết lại bởi tại bọn Phan
Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ và Trần Hoán
nhơn tuần nhác nhớn nên đến nỗi mất 6 tỉnh ấy. Truyền
lập tức nghị tội bọn ấy, dâng lên ta sẽ đoán định".
(Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu (viết tắt SQTCBTY);
in dịch ban cấp các trường học; năm 1925; trang 362).
♠ Đến tháng 11 âl năm Mậu Thìn (1868) đình thần tâu
công tội Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Bá Nghi, Võ Trọng
Bình. Sớ tâu gồm có 2 tập; 1 tập nghị xử tội về việc
mất 3 tỉnh Nam Kỳ, 1 tập nghị thương công về việc dẹp
yên giặc Bắc Kỳ. Tự Đức cho rằng đình nghị chưa được
minh chánh mới sửa định lại rằng: Tri Phương và Bá Nghi
cho khỏi giáng nhưng đình phong tước; Phan Thanh Giản
và Lâm Duy Hiệp tội "trảm giam hậu đời đời";
Võ trọng Bình xử trí giặc hàng không xong, cũng đình
phong tước. (SQTCBTY; đã dẫn; trang 370).
Sách ĐNTLCB cho thấy rằng Tự Đức và triều đình đã đổ
hết tội lỗi cho ông Giản về việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ,
kết tội: "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội"
và
nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở
bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu". (ĐNTLCB;
tập XXXI; Hà Nội 1974; trang 269).
♠ Năm 1886, vua Đồng Khánh lại khai phục nguyên hàm
cho ông Giản và khắc lại tên ông ở bia tiến sĩ: cho
ông Nguyễn Tri Phương dự thờ trong miếu Hiền lương,
Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp (Hiệp), Trương Văn Uyển
đều được khai phục nguyên hàm. (SQTCBTY; đã dẫn; trang
436)
♠ Điều cần lưu ý là sách Quốc Triều Chính Biên Toát
Yếu của sử quán triều Nguyễn in dịch vào năm 1925 đã
không viết gì về việc Tự Đức lên án kết tội "xét
phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án
"truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến
sĩ. Tại sao? Phải chăng đây là một trong những chuyện
xấu che tốt khoe không được phép gợi lại việc làm sai
trái của tiên nhân dòng họ nhà Nguyễn?
♠ Một điểm khác nữa cần lưu ý là dù tiếng tâm và vinh
dự của ông Giản đã được phục hồi từ niên hiệu Đồng Khánh
thứ nhứt (1886) nhưng vì Đồng Khánh được người Pháp
tấn phong lên làm vua (lên ngôi vào tháng 8 âl năm Ất
Dậu / 14 tháng 9dl năm 1885) trong khi vua Hàm Nghi
vẫn tiếp tục truyền hịch cần vương chống Pháp ở mạng
Quảng Bình khiến dư luận lúc đó và về sau nầy cho rằng
Đồng Khánh chỉ làm bù nhìn tay sai của người Pháp. Chính
vì vậy mà việc Đồng Khánh khai phục nguyên hàm và khắc
tên của ông Giản ở bia tiến sĩ không có một tác dụng
thuyết phục mạnh mẽ đối với các phong trào chống Pháp
vào thời đó cũng như sau nầy.
♠ Theo A.Schreiner, tác giả sách Abrégé de l'His-
toire d' Annam phát hành tại Sài Gòn năm 1906, thay
vì phải công nhận những hy sinh vô bờ bến của ông Giản
thì Triều đình Huế lại bôi bẩn danh phận của ông. Sắc
chỉ của Tự Đức ra lệnh nghị tội ông Phan Thanh Giản
cho thấy rõ sự sự mù quáng cứng ngắt của các tầng lớp
lãnh đạo triều đình nhà Nguyễn; triều đình nầy chỉ biết
đỗ lỗi cho những thuộc cấp nhưng không biết được rằng
chính sự ngu dốt của tập đoàn lãnh đạo ở Huế cùng với
những định chế tồi tệ của đất nước mới chính là nguy
cớ gây ra mọi điều khốn khó:
A leur retour dans la capitale, les employés des province
occidentales avaient tous été degradés. Quant à Phan
Thanh Giảng, au lieu de reconnaitre l'immensité de son
sacrifice, la cour déshonnora officiellement sa mémoire.
Voici le décret par lequel il est frappé, on ne fait
qu'y remarquer l'aveuglement constant de la cour de
Huế; invariablement ell s'en prend aux chefs alors que
son ignorance propre et les institutions défectueuses
du pays seules sont cause de tout la mal.(A.Schreiner;
sách đã dẫn; trang 290,291).
A.Schreiner cũng cho rằng chính vì sự kết tội ông Phan
Thanh Giản lần nầy của triều đình Huế theo lệnh của
Tự Đức đã khiến cho các con trai của ông Giản nổi loạn
chống lại người Pháp; bởi vì lương tâm sẽ không để cho
những người con nầy được yên ổn và vì tự ái và sĩ diện
họ sẽ hy sinh tất cả để tái tạo lại hình ảnh của người
cha (trong cái nhìncủa người dân An Nam), và làm thế
nào mà họ có thể nổi loạn được như vậy nếu không phải
là để đền bù lại điều tổn hại mà triều đình đã mạo xưng
gán tội cho ông Giản. (A.Schreiner; sách đã dẫn; trang
292, 293)
Chương
33
IX/- HẬU SINH ĐÁNH GIÁ
TIỀN NHÂN PHAN THANH GIẢN
Trong bài Tổng luận viết trên cuốn ĐỊA CHÍ VĂN HÓA
THÀNH PHỐ ****, xuất bản vào năm 1987,ông Trần Bạch
Đằng- là một trong 3 chủ biên của sách nầy- đã viết
như sau:
"Cái bất hạnh khác là Hồng Nhậm - ở ngôi lâu nhất
trong các vua Nguyễn: 36 năm - ngoài sinh thơ và nổi
tiếng có hiếu với mẹ, hoàn toàn mờ mịt về những chuyển
động long trời lở đất đang diễn ra khắp thế giới. Cá
bị số quan cao cấp cực kỳ bảo thủ và dốt nát tán ra
tán vào, bị nhà vua vứt bỏ, có người phải trả giá khá
đắt cho tấm lòng yêu nước và trí thức của mình. Về sau
nầy, Tự Đức bắt đầu thay đổi thái độ: cho mua tàu chiến,
gởi học sinh sang Âu Châu học về cơ khí, phái sứ giả
sang Mỹ, v.v. . . song đó chỉ là chủ trương chắp vá
"cò con" và cũng quá muộn, vả Pháp cũng ra
sức cản trợ
Vua đã thế, đại thần đã thế, sĩ phu cũng không hơn.
Các cuộc nổi dậy liên miên ở Trung và Bắc đều không
mang ý thức tạo điều kiện chống giữ giặc ngoài mà vẫn
lăm lăm giành quyền bính, dù Phan Bá Vành hay Đoàn Trưng,
Đoàn Trực. Trường hợp Lê Văn Khôi tuy là diu nhất ở
Nam Bộ, nằm trong hệ mâu thuẩn đó. Về phương diện nầy,
các phong trào gọi là khởi nghĩa ấy chưa bắt kịp đòi
hỏi khách quan của vận nước mặc dù mỗi cuộc khởi nghĩa
đều có một số nguyên nhân chính đáng.
Chúng ta kết án một loạt chủ trương "cầu hòa"
với Pháp "chuộc" các tỉnh đông Nam Bộ . .
. của triều đình, những nhượng bộ của Phan Thanh Giản
v.v . . . Chẳng có gì bào chữa nổi cho sự ương hèn.
Vấn đề là là phân tích toàn diện so sánh lực lượng của
một thời kỳ lịch sử và đường lối chung của triều đình
tạo từ trước các điều kiện khả dỉ yểm trợ cho quan điểm
"chủ chiến". Cùng một trình độ vật chất, sự
khác nhau về số lượng có thể bổ sung bằng lòng dũng
cảm, trí thông minh, dựa vào nhân dân, chiến lược, chiến
thuật hành binh v.v . . . Lý, Trần và Lê thủ thắng trên
căn bản đọ Thời Tự Đức, so sánh lực lượng - về trình
độ của các nền sản xuất có khác. Hơn nữa, triều Nguyễn
đang xuống, mất lòng dân, nội bộ lục đục . . .
Trong tinh thần ấy, chúng ta xưng tụng phái "chủ
chiến". Nhưng không thể rơi vào chủ nghĩa "duy
ý chí" - chỉ cần đánh và hể đánh là thắng."
(Trích từ bài Tổng luận của Trần Bạch Đằng đăng trong
sách Địa Chí Văn Hóa Thành Phố ****; xuất bản năm 1978;
trang 436)
Từ đoạn viết trên của ông Trần Bạch Đằng, có những
điểm sau đây cần được nêu lên:
Chúng ta kết án: chúng ta ở đây là những ai?
Chúng ta kết án một loạt chủ trương "cầu hòa"
với Pháp "chuộc" các tỉnh đông Nam Bộ . .
.của triều đình,
Chúng ta kết án những nhượng bộ của Phan Thanh Giản.
. .
Chẳng có gì bào chữa nổi cho sự ương hèn.
Chúng ta xưng tụng phái chủ chiến. Phái chủ chiến là
ai?
Không thể rơi vào chủ nghĩa "duy ý chí"- Chỉ
cần đánh và hể đánh là thắng.
*
1/- Chúng ta kết án: Chúng ta là ai?
Chương
34
- Chúng ta kết án: Chúng ta là ai?
GIAI ĐOẠN 1945-1954
Năm 1941, các đảng viên Đông Dương Cộng Sản do ông Nguyễn
Ái Quốc cầm đầu ở trên lãnh thổ Trung Quốc - đa số ở
2 tỉnh Quảng Châu và Nam Ninh - thành lập một mặt trận
gọi là Việt Nam Độc lập Đồng Minh hội, gọi tắt là Việt
Minh để kêu gọi toàn dân Việt Nam chống Pháp và Nhật.
Sự ra đời của mặt trận Việt Minh đã được ông Trần Trọng
Kim viết như sau:
"Ðảng Việt Minh là gì và do đâu mà ra? Trước thì
ít người biết rõ căn nguyên, sau đi đây đó xét hỏi kỹ
càng mới biết rõ nguồn gốc. Thoạt đầu vào khoảng năm
1938 ở Bắc Việt đã nghe nói có đảng Việt Minh hành động
ở mạn thượng du, nhưng lúc ấy ai cũng tưởng là một đảng
cách mệnh mới nào đó nên không để ý đến mấy.
Nguyên từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có
người nói đến chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy có một thiếu
niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi
lễ, quê làng Kim Liên huyện Nam Ðàn thuộc tỉnh Nghệ
An. Trước học trường trung học ở Huế rồi bỏ sang Pháp
theo Xã Hội Ðảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau lại
sang Nga vào đảng Cộng Sản, đến khoảng 1929-1930 ông
trở về gây phong trào cộng sản cách mệnh ở vùng Nghệ
Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp
một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy
phải im hơi lặng tiếng, nhưng vẫn ngấm ngầm tuyên truyền
trong đám dân gian và thợ thuyền, theo đúng phương pháp
đã định ở Mạc Tư Khoa bên Nga.
Trong khoảng thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc lánh sang
Hương Cảng, bị người Anh bắt. Người Pháp muốn đòi người
Anh giao trả cho chính phủ Ðông Dương, song theo tục
lệ Anh, người Anh không giao trả những người can phạm
vào việc chính trị, vì vậy ông phải giam ít lâu rồi
được tha và bị đuổi ra khỏi Hương Cảng.
Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng
ông đã chết trong ngục khi bị bắt ở Hương Cảng, và lại
đổi tên là Lý Thụy rồi chen lẫn với những người cách
mệnh Việt Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập
ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh,
gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động ở miền
thượng du bắc việt. Vì vậy thuở ấy người ta mới biết
là có đảng Việt Minh.
Ðến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây
đánh vào Lạng Sơn, những người như bọn ông Trần Trung
Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan
Bội Châu lập ra khi trước, theo quân Nhật về đánh quân
Pháp hồi tháng chín năm 1940. Sau vì người Nhật ký hiệp
ước với người Pháp rồi trả lại thành Lạng Sơn cho người
Pháp, ông Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử
tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700 người,
trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lương
chạy sang Tàu.
Vậy các đảng của người Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng
năm 1942 trở đi, có Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội,
Việt Nam Quốc Dân Ðảng và những người cách mệnh không
có đảng phái v...v...
Thuở ấy, chính phủ Trung Hoa thấy những đảng viên Việt
Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội hành động theo chủ nghĩa cộng
sản, bèn xuống lệnh giải tán đảng ấy và bắt Lý Thụy
giam trong hang đá ở Liễu Châu, ủy cho tướng Trương
Phát Khuê chủ trương việc tập hợp các đảng phái cách
mệnh Việt Nam lập thành một đảng để hành động cho có
hệ thống. Trương Phát Khuê giao cho ông Hoàng Lương
trù liệu việc ấy.
Ngày mùng 1 tháng mười năm 1942, ông Hoàng Lương chiêu
tập ở Liễu Châu những người trong các đảng phái hay
không có đảng phái để lập ra một đảng duy nhất gọi là
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, gồm đại biểu các đảng
sau đây:
1) Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, có Hoàng Lương
và Hồ Học Lãm làm đại biểu.
2) Việt Nam Quốc Dân Ðảng, có Vũ Hồng Khanh và Nghiêm
Kế Tổ làm đại biểu.
3) Vô đảng phái, có Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần,
Trần Báo, Trương Trung Phụng làm đại biểu.
Các đại biểu trước hết lập thành một ủy ban trừ bị
do Nguyễn Hải Thần chủ tọa để xếp đặt mọi việc.
Lúc ấy Lý Thụy còn phải giam, ủy ban trừ bị đứng ra
bảo đảm với chính phủ Trung Hoa, xin lĩnh ra để cùng
làm việc. Theo lời một người Việt Nam có mặt trong hội
nghị ấy đã nói: Lý Thụy có kết nghĩa với một người cộng
sản Tàu tên là Hầu Chí Minh, làm chức thiếu tướng trong
quân đội thuộc quyền chỉ huy của Trương Phát Khuê. Khi
ở nhà ngục ra, ông muốn tỏ tình thân ái với bạn mới
lấy tên là ***. Khi ông được tha ra, liền tuyên thệ
xin hết lòng trung thành với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng
Minh Hội mà làm việc. Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội
đã thành lập, đổi ủy ban trừ bị ra làm ủy ban chấp hành.
Khi ấy ông Hoàng Lương vì có sự gì xích mích với chính
phủ Trung Hoa nên bị bắt đem về Trùng Khánh. Bởi vậy
ủy ban chấp hành chỉ có những người này:
Trương Bội Công, chủ tọa.
Trần Ðình Xuyên.
Nguyễn Hải Thần.
Vũ Hồng Khanh, ủy viên.
Bồ Xuân Luật.
Trương Trung Phụng.
Nông Kính Du.
***được cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm tổng
cán sự."
(Trích từ tập Hồi Ký Kiến Văn Lục-Một Cơn Gió Bụi của
Lệ Thần Trần Trọng Kim)
Cũng theo ông Trần Trọng Kim thì đảng Công Sản Việt
Nam Ðộc Lập Ðồng Minh (Việt Minh) được tổ chức chu đáo
và khoa học. Dù ông *** vẫn còn ở Trung Quốc, nhưng
trong nước Việt Nam đâu đâu cũng có cán bộ bí mật hoạt
động và tuyên truyền rất khôn khéo, lôi cuốn rất nhiều
người đi theo trên khắp cả nước. Các công sở hoặc hảng
xưởng tư nhân đều có cán bộ Việt Minh cài đặt vào. Cán
bộ Việt Minh chịu khó và có kỹ luật, mặt trận Việt Minh
càng ngày mạnh và mạnh nhất khi Nhật Bản đưa quân vào
bán đảo Đông Dương trong khi ông *** vẫn ép mình giữ
một vai trò không quan trọng trong ban chấp hành của
đảng Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội ở Trùng Khánh
(Việt Cách).
Khoảng cuối năm 1944, Việt Cách dời về tỉnh Quảng Tây
và cử ông Hồ và 22 cán bộ của đảng Việt Nam Phục Quốc
Đồng Minh Hội (Phục Quốc: do 2 ông Hoàng Lương và Hồ
Học Lãm đại biểu) về Bách Sắc để lo tổ chức việc trở
về Việt Nam xây dựng cơ sở. Đoàn chia ra 2 nhóm; nhóm
của ông *** có Vũ Nam Long đánh chiếm đồn Đồng Mu ở
Sóc Giang thuộc Cao Bằng vào tháng 2 năm 1945 và từ
khi đó ong** bỏ danh hiệu Việt Cách và dùng tên gọi
cũ là Việt Minh với lá cờ đỏ sao vàng. Đầu tháng 3 năm
1945, Việt Minh về vùng Văng Lãng thuộc Thái Nguyên,
giáp ranh tỉnh Tuyên Quang và lập căn cứ bí mật ở đó
và từ bấy giờ Việt Minh hoạt động rất mạnh nhưng tung
tích của ông *** vẫn được giữ rất kín cho đến ngày 19
tháng 8 năm 1945.
Đồng thời, ngày 17 tháng 4 năm 1945, ông Trần Trọng
Kim ở Huế đệ trình danh sách thành lập chính phủ cho
cả nước Việt Nam bao gồm 3 miền Trung Nam Bắc và được
hoàng đế Bảo Đại chấp nhận. Thành phần nội các Trần
Trọng Kim gồm có:
Trần Trọng Kim, Nội Các Tổng Trưởng
Trần Ðình Nam Nội Vụ Bộ Trưởng
Trần Văn Chương Ngoại Giao Bộ Trưởng
Trịnh Ðình Thảo Tư Pháp Bộ Trưởng
Hoàng Xuân Hãn Giáo Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trưởng
Vũ Văn Hiền, Tài Chánh Bộ Trưởng
Phan Anh, Thanh Niên Bộ Trưởng
Lưu Văn Lang, Công Chính Bộ Trưởng
Vũ Ngọc Anh, Y Tế Bộ Trưởng
Hồ Bá Khanh, Kinh Tế Bộ Trưởng
Nguyễn Hữu Thi, Tiếp Tế Bộ Trưởng.
Đích thân ông Trần Trọng Kim cùng với các ông Hoàng
Xuân Hản, Vũ Văn Hiền ra Hà Nội gặp chức quyền quân
sự Nhật Bản để yêu cầu giao trả lại cho chính phủ Việt
Nam các nhượng địa của Pháp là Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng và toàn hạt đất Nam Kỳ.
Ngày 20 tháng 7 năm 1945, Nhật giao trả chính phủ Việt
Nam Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng. và trao tặng cho chính
quyền Việt Nam ở Bắc kỳ 2000 khẩu súng và đạn dược,
tha các thanh niên bị Nhật bắt vì theo Việt Minh. Ngày
1-8-1945,, đốc lý Trần Văn Lai cho phá bỏ các tượng
người Pháp như Paul Bert, Jean Dupuis, đài kỷ niệm lính
tập khố xanh khố đỏ . . . ở Hà Nội.
Trong lúc còn ở Hà Nội, ông Trần Trọng Kim đã tiếp xúc
đại diện của Việt Minh để yêu cầu hợp tác nhưng bị từ
chối và còn tuyên bố rằng: Việt Minh nhất định phải
thành công, nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới
có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín,
chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn
lại, còn hơn với chín phần kia. (Trần Trọng Kim; Hồi
Ký Kiến Văn Lục-Một Cơn Gió Bụi; 1949).
Ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ dội bom nguyên
tử lần đầu tiên xuống thành phố Hiroshima và Nagaski
của Nhật Bản.
Ngày 13 tháng 8 năm 1945 đảng Cộng sản Đông Dương họp
tại Tân Trào ở tuyên Quang và quyết định: đồng loạt
khởi dậy, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm lấy chính quyền
của chính phủ Việt Nam hiện tại. Tổng bộ Việt Minh ra
lời hiệu triệu.Sau khi nêu rõ Nhận Bản đã đầu hàng,
quân Đồng minh sắp vào Đông Dương, bản hiệu triệu viết:
"giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Dân tộc ta đã đến
lúc vùng dậy cướp lại quyền độc lập của mình! Trước
cơ hội có một không hai nầy, toàn thể dân tộc ta phải
đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân
giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc
Nhật đòi lấy tự do hạnh phúc cho nhân dân".(Dương
Trung Quốc;Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử 1919-1945;
trang 406; Nhà xuất bản Giáo dục; Hà Nội; 2001)
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, ông Trần Trọng Kim cử ông
Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai vào gặp chức quyền Nhật
đê tiếp thâu toàn hạt Nam Kỳ. Hoàng đế Bảo Đại tuyên
chiếu hủy bỏ các hiệp ước đã ký với Pháp về chế độ đô
hộ trên khắp nước Việt Nam.
Ông Trần Trọng Kim xin từ nhiệm nhưng vẫn được hoàng
đế Bảo Đại lưu lại để xử lý thường vụ trong khi tìm
người thay thế.
Hoa Kỳ chấp nhận sự đầu hàng của Nhật
Nhiều đảng phái và đoàn thể ở Sài Gòn nhóm họp đại
hội hô hào đoàn kết chống Pháp và thành lập một Mặt
Trận Quốc Gia Việt Nam Thống Nhất gồm có nhiều đảng
phái như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Hòa Hảo, Cao Đài, Liên
Đoàn Công Chức, Tịnh Độ Cư sĩ, Thanh Niên Tiền Phong.
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, đại hội quốc dân của Việt
Minh ở Tân Trào tán thành chủ trương phát động phong
trào đồng loạt nổi dậy, thông qua 10 chính sách lớn
của Việt Minh và quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng
năm cánh, quốc ca là bài Tiến quân ca của nhạc sỉ Văn
Cao, cử ra Ủy Ban Giải Phóng dân tộc Việt Nam, tức chính
phủ lâm thời do ông *** làm chủ tịch cùng với một ủy
ban thường trực gồm 5 người:***, Trần Huy Liệu, ****,
Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, công chức ở Hà Nội tổ chức
cuộc biểu tình lớn ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim,
tuần hành qua các đường phố lớn để tỏ bày tỏ ý chí bảo
vệ đất nước. Cán bộ Việt Minh trong khối biểu tình đã
lèo lái đám đông, biến cuộc biểu tình thành ra một cuộc
biểu dương ý chí quần chúng ủng hộ mặt trận giải phóng
của Việt Minh. Các đội dân quân giải phóng của Việt
Minh đồng loạt chiến đoạt chính quyền ở nhiều địa phương.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Việt Minh kêu gọi dân chúng
tựu họp đông đảo trước Nhà hát lớn Hà Nội để nghe tuyên
bố của Mặt trận Cứu quốc Việt Minh. Dân quân giải phóng
của Việt Minh cùng với cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở nhiều
nơi, chiếm đóng các công sở.
Ngày 21 tháng 8 năm 1945, một số thanh niên trí thức
nhóm họp tại Đại Học xá Hà Nội rồi biểu quyết gởi điện
văn yêu cầu hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trao quyền
cho ông...
Ngày 22 tháng 8 năm 1945, nghe theo lời cố vấn của
Trần Trọng Kim, hoàng đế Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị.
Tại thành phố Sài Gòn, tối ngày 20 tháng 8 năm 1945,
Việt Minh đã tổ chức mít tinh trong thành phố, kêu gọi
dân chúng biểu tình. Đến sáng ngày 25-8-1945, Việt Minh
chiếm đóng toàn thành phố. Một Ủy Ban Hành Chính lâm
thời Nam Bộ được tuyên bố thành lập do Trần Văn Giàu
làm chủ tịch.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, ông *** từ Tân Trào về đến
ngoại thành Hà Nội. Ngày 26-8-1954, vào nội thành ở
tại số nhà 48 phố Hàng Ngang.
Ngày 28 tháng 8 năm 1945, một chính phủ lâm thời thành
lập tại Hà Nội:
***. chủ tịch kiêm bộ ngoại giao
Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ nội vụ,
Chu Văn Tấn, bộ trưởng bộ quốc phòng
Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ thông tin tuyên truyền
Dương Ðức Hiền, bộ trưởng bộ thanh niên quốc dân
Nguyễn Mạnh Hà, bộ trưởng bộ quốc dân kinh tế
Vũ Ðình Hòa, bộ trưởng bộ giáo dục
Vũ Ngọc Khánh, bộ trưởng bộ tư pháp
Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng bộ y tế
Ðào Trọng Kim, bộ trưởng bộ giao thông công chánh
Lê Văn Hiến, bộ trưởng bộ lao động
Phạm Văn Ðồng, bộ trưởng bộ tài chánh
Nguyễn Văn Tố, bộ trưởng bộ cứu tế xã hội
Cù Huy Cận, ủy viên không giữ bộ nào
Nguyễn Văn Xuân, ủy viên không giữ bộ nào
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 ông *** đọc bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
*
-Cần lưu ý rằng, trong 10 chính sách lớn của Việt Minh
bao gồm việc giành lấy chính quyền (chính sách 1) tịch
thu tài sản của giặc nước và Việt gian (chính sách 3),
kiến thiết nền văn hóa mới (chính sách 9).
- Việc lấy lại chủ quyền cho toàn thể nước Việt Nam
từ tay người Nhật là do chính phủ của ông Trần Trọng
Kim thực hiện để rồi tiếp ngay sau đó chính quyền Việt
Minh dựa vào thời cơ để đoạt lấy rồi thành lập chính
phủ Lâm thời tại Hà Nội.
- Như vậy có nghĩa là trong giai đoạn ông Trần Trọng
Kim cầm quyền cai trị toàn cõi Việt Nam từ 17 tháng
4 năm 1945 cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 thì chưa
thấy có một dư luận công khai nào ở cả hai miền Nam
Bắc lên án ông Phan Thanh Giản.
- Từ 2 tháng 9 năm 1945 đến ngày ký kết hiệp định Genève
ngày 20 tháng 7 năm 1954 chia đôi nước Việt Nam đất
nước Việt Nam từ sông bến Hải vẫn chưa thấy có tài liệu
nào lên án ông Phan Thanh Giản
Chương
Kết
GIAI ĐOẠN 1954-1975
Chính quyền miền BắcViệt Nam kể từ tháng 7 năm 1954
đã dùng chiến dịch tuyên truyền mạnh mẻ để chống đối
chính quyền miền Nam đang được Pháp và Mỹ yểm trợ. Tất
cả những nhân vật nào có dính líu dây dưa với người
Pháp kể từ thời hoàng đế Gia Long đến hiện tại đều bị
lên án là Việt gian bán nước, là tay sai của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, gọi chính phủ và quân đội Việt Nam
Cộng Hòa ở miền Nam là ngụy quyền, ngụy quân. Trong
khi đó miền Nam thì lại lên án Đảng Lao Động ở miền
Bắc là tay sai, là nô lệ của 2 đế quốc Cộng sản Nga
và Trung Quốc, tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai, áp dụng
chính sách độc tài đảng trị, vô thần, vô gia đình, bần
cùng hóa nhân dân miền Bắc.
* Đứng đầu bộ thông tin tuyên truyền của miền Bắc trước
sau vẫn là ông Trần Huy Liệu. Tất cả mọi chiến dịch
thông tin tuyên truyền đều phải theo chính sách và đường
lối của đảng Lao Động (Cộng Sản) Việt Nam dựa trên lý
thuyết Mark-Lênin làm phương chăm hành động và là căn
bản để lập luận, giải thích mọi sự kiện vật chất cũng
như tinh thần. Đường lối tuyên truyền của đảng Lao Động
(Cộng Sản) và nhà nước miền Bắc trong giai đoạn từ 1954-1975
là hạ uy thế chính quyền miền Nam và đánh giá thấp tất
cả những giá trị tinh thần, văn hóa, lịch sử, khoa học
v.v . . .của nhân dân miền Nam kể từ sông bến Hải xuống
tới mũi Cà Mau. Trong chiều hướng đó, bộ thông tin tuyên
truyền miền Bắc do đảng viên đảng Cộng Sản là ông Trần
Huy Liệu đã được đảng giao phó thành lập và chỉ đạo
Ban Nghiên Cứu Văn Sử Địa (1953) rồi kế tiếp kiêm Phó
ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Viện trưởng
Viện Sử học, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt
Nam. Sau này, ông Trần Huy Liệu còn là Tổng biên tập
tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, chủ tịch sáng lập Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam.
Như vậy vai trò của ông Trần Huy Liệu cũng giống như
vai trò biên tu của ông Ngô Sĩ Liên dưới triều đại phong
kiến vua Lê Thánh Tông phụ trách việc biên soạn bộ chính
sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và vai trò tổng tài của ông
Phan Thanh Giản trong Quốc sử quán triều Nguyễn phụ
trách biên soạn bộ chính sử Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục. Mà khi nói tới chính sử tức là lịch
sử viết đi viết lại bởi bất cứ một chính quyền đương
thời nào- nhất là các chính quyền ở vùng Á Châu- thì
tính cách khách quan, vô tư rất có thể bị dị nghị vì
các người được giao phó viết lại lịch sử thường thường
phải viết theo ý muốn và đường hướng của người lãnh
đạo làm chủ đất nước vào lúc đó.
Lần lược những năm 1956, 1959 và 1960, ông Trần Huy
Liệu cho ra đời ba tập sách "Lịch sử 80 năm chống
Pháp" viết lại quá trình đấu tranh của toàn dân
Việt Nam từ khi quân xâm lược Pháp đánh chiếm nước ta
đến tháng 8 năm 1945. Có thể nói đây là một bộ chính
sử của chính quyền miền Bắc được viết theo tư duy lý
luận Mác-xít và dĩ nhiên là nhằm mục tiêu chống Pháp
và những người miền Nam đã và đang bị lôi kéo dính líu
với người Pháp. Hậu thế có thể đánh giá như thế nào
về ba tập sách của ông Liệu? Có lẽ không nên gọi 3 tập
tài liệu của ông Liệu dùng trong chiến dịch tuyên truyền
chống Pháp và "Việt gian tay sai" đang cầm
quyền ở miền Nam là một bộ sử đúng nghĩa chăng?
"Năm 1953, "bỗng nhiên" ông được bổ
nhiệm sáng lập Ban Nghiên cứu Sử - Địa - Văn ở Tân Trào;
kéo Cao Xuân Huy, Lê Thước, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo
về làm việc; đào tạo Nguyễn Công Bình, Văn Tạo vào nghề.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
Trần Huy Liệu không phải là người được trang bị vốn
học một cách có hệ thống"
(Trích bài viết: Trần Huy Liệu-từ nhà cách mạng tới
nhà Khoa học đăng trên mạn Internet www.vnn.vn/tulieu/2003/6/14139/
- 21k - Cached).
Có thể đây là biểu hiện của một dư luận trong nước
ngạc nhiên và nghi ngờ về khả năng trí thức chân chính
của người sáng lập viên Ban Nghiên cứu Sử-Địa-Văn.
Bản án năm 1963
Là người đứng đầu bộ thông tin tuyên truyền vừa là chủ
biên Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử của đảng và nhà nước
Cộng sản ở miền Bắc nước Việt Nam, ông Trần Huy Liệu
đã dề ra việc bình luận một số nhân vật lịch sử như
Hồ Quý Ly, Lưu Vĩnh Phúc, Nguyễn Trường Tộ và đặc biệt
là ông Phan Thanh Giản qua một loạt bài viết đăng trên
Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử (viết tắt NCLS) từ số 48
đến số 55, phát hành trong năm 1963 ở Hà Nội nơi mục
Bình Luận Nhân Vật Lịch Sử. Số bài viết được tạp chí
NCLS cho đăng lên gồm có:
- "Phan Thanh Giản trong lịch sử cận đại Việt Nam"
của Đặng Huy Vận và của Chương Thâu (Tạp san NCLS số
48, tháng 3 năm 1963.
- "Cần Nhận Định và Đánh Giá Phan Thanh Giản như
thế nào?" của Đặng Việt Thanh.
- "Đánh giá Phan Thanh Giản như thế nào cho đúng?"
một bài của Nguyễn Khắc Đạm, một bài của Trương Hữu
Ký.
- "Cần nghiêm khắc lên án Phan Thanh Giản của Chu
Quan Trứ.
- "Cần vạch rõ hơn trách nhiệm của Phan Thanh Giản
trước lịch sử" của Nhuận Chi
- "Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan
Thanh Giản" của Trần Huy Liệu.
Mở đầu cho loạt bài bình luận nầy, tòa soạn Tạp Chí
NCLS của Ông Trần Huy Liệu đã đưa ra những tiêu chuẩn
để hướng dẫn cho những người muốn viết về ông Phan Thanh
Giản như sau:
“Theo ý chúng tôi, trong việc bình luận nhân vật lịch
sử, nhất là những nhân vật như Phan-thanh-Giản, chúng
ta cần dựa vào quan điểm chủ nghĩa Mác, đem yêu cầu
của thời đại và nguyện vọng của nhân dân để soi vào
hành động của người đó sẽ thấy rõ có công hay có tội,
đáng làm gương hay đáng chỉ trích. Chúng ta có thể nhìn
vào nhiều mặt nhưng bao giờ cũng phải nhắm vào mặt chính
của nó. Nhất là không thể chiều theo tình cảm riêng
hay chỉ nhìn vào đạo đức tư cách cá nhân mà phải nhìn
vào sự việc cụ thể để đánh giá cho đúng. Một khi đã
có những kiến giải rõ ràng rồi thì đối với đối tượng
mà mình phê phán cần có thái độ dứt khoát.”(Tạp chí
NCLS số 48, tháng 3 năm 1963; Hà Nội).
Gợi ý như thế, có thể là những người tham dự viết bài
- lúc đó đang ở dưới chế độ Cộng Sản ở miền Bắc Việt
Nam - chưa nắm vững được điều gọi là quan điểm chủ nghĩa
Mác nếu không nói một cách quá đáng là họ không biết
gì hoặc không muốn biết chủ nghĩa dài dòng rắc rối đó
vì đa số họ xuất thân từ giới lao động bình dân không
có đủ thời gian để ngồi nghiền ngẫm những tập sách lý
thuyết "siêu phàm" phức tạp nhiêu khê của
các ông trùm Cộng Sản ngoại quốc, và dù họ được gọi
là những người Cộng Sản Việt Nam. Trên thực tế, có lẽ
chỉ có một thiểu số rất ít đảng viên trung kiên đảng
Cộng Sản Việt Nam là thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin.
Dân chúng miền Bắc vào thời điểm năm 1963 chỉ cần có
gạo và không biết ông Mác là ai. Không có ai có thể
giải thích nổi cho tầng lớp dân chúng nông dân, thợ
thuyền cùng khổ ở miền Bắc vào thời điểm đó hiểu thấu
các tín điều Các-Mác-Lênin.
Do đó, lời gợi ý dựa vào quan điểm chủ nghĩa Mác cũng
giống như một dụ chỉ của một ông vua hay của một hoàng
đế thời phong kiến ban xuống cho các nho quan để họ
chỉ cần hiểu rằng viết chính sử là phải viết theo ý
của ông vua hay của ông hoàng đế. Trước đó, năm 1951,
đảng Lao Động Việt Nam cũng ban hành xuống cho các đảng
viên của mình một chỉ thị gọi là Chính cương Đảng Lao
động Việt Nam (năm 1951) được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ hai của Đảng thông qua, năm 1951. Nơi chương
II dưới tiêu đề XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM,
Tiết II nói về Cách Mạng Việt Nam, điều 1,2 và 5 viết
như sau:
II. Cách mạng Việt Nam
1.Hiện nay cách mạng Việt Nam phải giải quyết mâu thuẫn
giữa chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam và những thế lực
phản động, khiến cho chế độ ấy phát triển mạnh mẽ và
thuận chiều tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thế lực phản động chính đang ngăn cản sự phát triển
của xã hội Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
Những di tích phong kiến cũng làm cho xã hội Việt Nam
đình trệ. Do đó cách mạng Việt Nam có hai đối tượng.
Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược,
cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này
là phong kiến phản động.
2. Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là
đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược giành độc lập và thống
nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ
nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính
trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên
lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến
để quyết thắng quân xâm lược.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
5. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất
định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội. Do giai
cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nông
dân và lao động trí óc, lại được sự giúp đỡ của Liên-xô
và các nước dân chủ nhân dân, nhất là Trung Quốc, cách
mạng Việt Nam không thể đi con đường nào khác ngoài
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải
qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu
là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai,
nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng,
phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân;
giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã
hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên
hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm
vụ trung tâm, phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để
tập trung lực lượng vào đó mà thực hiện.
Trong giai đoạn thứ nhất, giai đoạn hiện tại, mũi nhọn
của cách mạng chĩa vào đế quốc xâm lược. Đảng phải tập
hợp mọi lực lượng dân tộc, lập Mặt trận dân tộc thống
nhất, kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược và các
hạng Việt gian. Đồng thời phải cải thiện đời sống cho
nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, để cho nhân
dân hăng hái kháng chiến.
Sang giai đoạn thứ hai, mũi nhọn của cách mạng chĩa
vào lực lượng phong kiến. Lúc đó Đảng phải tập trung
lực lượng xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến, triệt để thực hiện người cày có ruộng, đẩy mạnh
việc kỹ nghệ hóa: hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
Song, vẫn tiếp tục chống đế quốc thế giới bảo vệ độc
lập của dân tộc.
Đến giai đoạn thứ ba, trọng tâm của cách mạng là phát
triển cơ sở xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị thực hiện chủ
nghĩa xã hội. Những bước cụ thể của giai đoạn này phải
tùy theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và
ngoài nước khi đó mà quyết định.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ."
(Nguồn: Đối thoại sử học, nhiều tác giả, nhà xuất bản
Thanh Niên, Hà Nội 2000)
và www.cpv.org.vn/details.asp?topic=2& - Cached
*
Như vậy, không cần phải đọc hết các bài tham luận về
ông Phan Thanh Giản vừa kể trên, chỉ cần nhìn vào bài
mở đầu của tòa soạn tạp chí NCLS và những nhan đề của
những bài được chọn đăng người ta cũng có thể biết trước
được những bài viết sẽ phải theo đúng đường hướng của
bộ Thông tin tuyên truyền của ông Trần Huy Liệu và những
bài viết nầy chỉ nên được xem như là những tờ truyền
đơn không có tính cách khách quan vô tư, độc lập, khó
thuyết phục cho người khác xem đó là những bài nghiên
cứu về lịch sử được viết bằng bộ não và theo tinh thần
khoa học nghiêm chỉnh.
Chỉ có Bộ Tuyên Truyền Thông Tin và nhóm Nghiên Cứu
Lịch Sử của ông Trần Huy Liệu vào năm 1963 tuyên bố
rằng: "về căn bản đều nhất trí ở chỗ kết án tội
nhân của lịch sử ".
Sử sách dùng trong các trường học miền Bắc do Ủy Ban
Khoa Học Xã Hội trực tiếp chỉ đạo phát hành vào năm
1971 dưới đề tựa LỊCH SỬ VIỆT NAM, Tập I (viết tắt là
LSVN) cũng không ra ngoài đường hướng của bản Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam (năm 1951). Sang giai đoạn
thứ hai, mũi nhọn của cách mạng chĩa vào lực lượng phong
kiến. Lúc đó Đảng phải tập trung lực lượng xóa bỏ những
di tích phong kiến và nửa phong kiến.
Kiểu viết trong LSVN nhằm mục đích tuyên truyền gieo
mầm thù ghét hơn là giáo dục truyền đạt kiến thức cho
học sinh: nơi chương VIII, từ trang 368 đến 386, Nguyễn
Phúc Ánh Gia Long và các người tiếp nối kế nghiệp đế
vương của dòng họ Nguyễn đã bị LSVN kết án không nhân
nhượng trong khi dòng họ Hồ Văn Huệ Quang Trung được
xưng tụng và vinh danh hết mức. Chỉ nhìn vào các tiêu
đề trong bản mục lục của LSVN cũng có thể nhìn thấy
điều đó:
Mục
Lục
Chương VIII: Giai đoạn suy sụp của chế độ phong kiến
thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Phong trào cách mạng
nông dân Tây-sơn và cuộc đấu tranh thống nhất đất nước,
bảo vệ độc lập dân tộc. trang 319
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Sự sụp đổ của chế độ phong kiến ở Đàng-trong. Khởi nghĩa
Tây Sơn bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trang 330
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . ..
Tình hình khủng hoảng của chế độ phong kiến vào nửa
đầu thế kỷ XIX. Chiến tranh nông dân phát triển liên
tục, mạnh mẽ. trang 368
Nhà Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến phản động: 369.
Thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan: 369.
Tăng cường bộ máy đàn áp: 371. Bộ máy quan lại hủ lậu
mục nát: 372.- Chế độ áp bức bốc lột nặng nề: 373. -
Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động: 375; Chính
sách ruộng đất: 375; Nông nghiệp sa sút: 376; Sự phát
triển của kinh tế hàng hóa và những chính sách lạc hậu
của triều Nguyễn: 378.- Chính sách đối ngoại mù quáng:
379
Năm 1975: thi hành bản án 1963
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thi hành bản án năm 1963,
tất cả những gì có liên hệ dính líu với Phan Thanh Giản
đều bị chính quyền mới ra lệnh hủy bỏ và đập phá: tên
trường học và tên đường mang tên Phan Thanh Giản ở Sài
Gòn bị xóa tên. Tại Đà Nẵng trường tư thục Phan Thanh
Giản bị nhà nước tịch thâu và đổi tên là trương lê Hồng
Phong. Trường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ bị đổi thành
trường Châu Văn Liêm và bức tượng của ông Giản- "Tội
nhân của lịch sử"- đã bị những người thi hành công
luật của chế độ mới mắng nhiếc là kẻ phản quốc hèn nhát
rồi đập phá tan nát.
Bản án năm 1978
Năm 1978 ông Trần Bạch Đằng vẫn còn xác nhận sự nhất
trí của nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Trần Huy Liệu qua 2
chữ "chúng ta" khi ông Đằng viết rằng "Chúng
ta kết án một loạt chủ trương "cầu hòa" với
Pháp "chuộc" các tỉnh đông Nam Bộ . . . của
triều đình, những nhượng bộ của Phan Thanh Giản v.v
. . . Chẳng có gì bào chữa nổi cho sự ương hèn. (Trích
từ bài Tổng luận của Trần Bạch Đằng đăng trong sách
Địa Chí Văn Hóa Thành Phố ****; xuất bản năm 1978; trang
436).
Năm 2002
Ảnh hưởng của bản án Phan Thanh Giản từ thời Tự Đức
cùng với với những bài "Nghiên Cứu Lịch Sử"
từ năm 1963 phát xuất từ miền Bắc Việt Nam vào năm 1963
và từ sau năm 1975 trên toàn cõi nước Việt Nam đã trở
thành "nhất trí" đối với những người cán bộ
gốc miền Bắc đã từng theo và hiện vẫn đang sống với
chế độ và chính quyền hiện nay ở Việt Nam.
Trong bài viết THƯ NGỎ GỬI TỔNG BÍ THƯ GIANG TRẠCH DÂN
của ông Trần Khuê đăng lên mạng lưới internet ngày 23
tháng 2 năm 2002 có đoạn viết như sau:
(LÊN MẠNG THỨ BẢY 23 THÁNG HAI 2002)
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Trân trọng đề nghị các đ/c công bố công khai nội dung
hai bản hiệp định để nhân dân hai nước cũng như nhân
dân thế giới đều được tỏ tường chính xác. Tuy nhiên,
theo truyền thống văn hóa Việt Nam thì việc cắt đất
nhượng cho ngoại bang dù chỉ một cây số vuông cũng là
trọng tội, chứ đâu phải tới hàng trăm hay hàng ngàn
cây số. Nhớ lại hồi phái đoàn Phan Thanh Giản vâng lệnh
hoàng đế Tự Ðức ký hiệp ước 1867 nhượng ba tỉnh Nam
Kỳ cho thực dân xâm lược Pháp đã bị dư luận nhân dân
lên án dữ dội như thế nào : ''Phan, Lâm mãi quốc, Triều
đình khí dân'' (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán
nước, còn Triều đinh Huế thì bỏ dân). Và Hoàng đế Tự
Ðức đã phải làm hẳn một bài thơ giả đò xấu hổ để tránh
búa rìu của dư luận, đồng thời hy vọng đánh lừa cả đương
thời và hậu thế :
Khí dân Triều trữ cữu,
Mãi quốc thế gian bình,
Sử ngã chung thân điếm
Hà nhan nhập miếu đình.
(Tự Ðức - Ngự chế thi tập)
Tạm dịch :
Tội lũ bay : bán nước,
Tội triều đình : bỏ dân,
Khiến đời ta mang nhục,
Mặt nào gặp tiền nhân ?
(Trần Khuê dịch)
(nguồn: Diễn Đàn Dân Chủ Forum http://danchu./net)
*
X/- TẠM KẾT
Câu hỏi đặt ra là: những cán bộ Cộng Sản gốc người miền
Nam - nhất là đối với những người cán bộ được gọi là
giới trí thức miền Nam - đã có thái độ nào, những phản
ứng nào đối với chiến dịch tuyên truyền nhằm triệt hạ
tên tuổi của ông Phan Thanh Giản kể từ 1954 đến năm
2004 ? Họ chỉ biết yên lặng có lẽ vì không muốn tạo
rắc rối cho bản thân. Cho nên, nếu bây giờ họ - kể cả
những người cựu đảng viên Cộng Sản cao cấp của miền
Nam hiện còn đang ở trong nước hay đang ở nước ngoài
- mới chịu tỏ bày quan điểm của mình về trường hợp của
ông Phan Thanh Giản thì việc làm của họ cũng khó có
thể thuyết phục những người Việt Nam ở khắp nơi tin
rằng quan điểm của họ là vô tư và khách quan.
Còn nhân dân miền Nam Việt Nam kể từ sông Bến Hải thì
sao? Cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, có thể nói là
hầu hết nhân dân miền Nam không mấy quan tâm đến chính
sách đấu tố và chiến dịch tuyên truyền tâm lý chiến
tranh của chính quyền miền Bắc mặt dù chính quyền miền
Nam ở bên nầy vĩ tuyến cũng đấu tố Cộng sản một cách
quyết liệt. Dân chúng miền Nam chấp nhận tên đường Gia
Long, nhưng họ vẫn cung kính chấp nhận tên đường Nguyễn
Huệ mặc dù 2 nhân vật lịch sử nầy là hai kẻ thù đối
nghịch không đội trời chung.
Người miền Nan kính trọng ông Hoàng Diệu ngang với
sự kính trọng của họ đối với ông Phan Thanh Giản mà
không cần thắc mắc ông nầy là gốc Quảng Nam miền Trung
còn ông kia là gốc Vĩnh Long miền Tây. Dân chúng miền
Nam biết rằng Trương Định chống đối Phan Thanh Giản
nhưng đường phố ở Sài Gòn vẫn có tên của ông Định. Tại
sao lại có tình trạng như thế? Bởi vì dân chúng Nam
Kỳ chỉ cần nhìn vào một khía cạnh đơn giản: tất cả các
nhân vật lịch sử vừa kể đều chết vì giặc Pháp xâm lăng
Việt Nam và vì sự suy đồi bất lực của triều đình Tự
Đức.
Từ năm 1945 đến 1975, tại miền Nam, sử sách dùng trong
các trường học không có gì thay đổi: chính phủ miền
Nam không tự mình đứng ra chỉ đạo viết lại lịch sử dân
tộc theo nhu cầu chính trị của từng giai đoạn chiến
tranh giữa hai miền Nam Bắc. Nơi các trường trung học,
các học sinh có chào cờ, có suy tôn tổng thống nhưng
không có chương trình tố Cộng hay chiến dịch dạy học
hạ bệ các nhân vật lịch sử thuộc các triều đại phong
kiến trước năm 1945. Những sách vở, báo chí tuyên truyền
chống Cộng do chính phủ miền Nam chủ xướng chỉ nhắm
thẳng vào chế độ cai trị ở miền Bắc vào lúc đó mà thôi.
Chưa được thấy có sách vở báo chí ở miền Nam vào lúc
đó bêu rêu hai nói xấu một nhân vật lịch sử nào của
các triều đại phong kiến Việt Nam được đảng và nhà nước
ở miền Bắc lựa chọn làm mẫu mực tôn vinh và viết lại
lịch sử dân tộc. Tại miền Nam vào lúc đó cũng chưa thấy
có dư luận hoặc chiến dịch nào nhằm "hạ bệ"
hay lên án những nhân sĩ trí thức của miền Bắc còn sót
lại từ thời đại nhà Hậu Lê và trở thành hàng thần của
nhà Nguyễn.
Trong thời kỳ quân xâm lược Pháp đánh phá Nam Kỳ, không
thấy có một nhân sĩ nào ở Bắc Kỳ có ý kiến hoặc đứng
ra tự động mộ nghĩa quân từ miền Bắc để đưa vào Nam
tiếp viện cho ông Trương Định. Phải chăng họ là những
nhân sĩ ăn gạo của nhà Nguyễn Gia Long nhưng vẫn ngấm
ngầm hoài vọng về nhà Hậu Lê và nhà Hồ Tây Sơn, luôn
luôn mong ngóng sự sụp đổ đến với dòng họ nhà Nguyễn
dù nguyên cớ sụp đổ đến bất cứ từ đâu?
Khi đã làm chủ hoàn toàn đất nước Việt Nam, hoàng đế
Gia Long đã thi hành một biện pháp bộc phát và thất
sách "căn nọc đánh đít" hạ nhục các nhân sĩ
của chế độ cũ ở miền Bắc cùng một lúc hạ cấp kinh đô
Thăng Long "ngàn năm văn vật" để gọi bằng
một cái tên "Bắc thành" cục mịch khiến cho
họ uất ức căm hận không nguôi. Dù vậy, họ cũng không
tự xử để tránh kẻ thù làm nhục mà vẫn đành lòng gánh
chịu kiếp "hàng thần lơ láo, phận mình ra sao?"
để rồi cứ giữ mãi mối uất giận trong lòng và giận lây
qua cả dân chúng miền Nam nữa, kéo dài từ đời nầy qua
đời khác, tiếp tục luôn cho đến sau năm 1975. Mặc cảm
tự tôn tự đại của nhân sĩ miền Bắc được hung đúc bởi
"truyền thống Nam tiến" mở rộng lãnh thổ Đại
Việt: từ ngàn xưa đất nước chỉ có những trường hợp tiến
bước từ Bắc xuống Nam, nhưng nay thì tình huống lại
hoàn toàn khác, đất nước Đại Nam được thống nhất từ
Gia Định ra Thăng Long. Niềm kiêu hãnh tự hào về truyền
thống Nam tiến lâu đời bổng chốc bị tiêu tan chỉ vì
một lần Bắc tiến của người miền Nam "không có văn
hiến" khiến cho nhân sĩ miền Bắc tự cảm thấy mình
bị hạ thấp giá trị để rồi oán hận âm thầm, oán hận thâm
niên chờ đợi ngày họ nhà Nguyễn sụp đổ.
Kể từ triều đại Gia Long, gần như miền Bắc không còn
thấy có xuất hiện nhân sĩ trí thức nào có tầm cỡ ngang
với những ông Trịnh Hoài Đức, Trần Văn Học, Phan Thanh
Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của và điều nầy cũng có thể là một nguyên
cớ khác gây ra mặc cảm tự ti đưa đến những kiểu đấu
tố hạ bệ những nhân vật lịch sử vừa kể.
*
Tóm lại, với âm mưu xâm lược rõ rệt của người Pháp,
với một triều đình phong kiến chậm tiến, một quân đội
yếu kém chưa đánh đã chạy của triều đình nhà Nguyễn
cùng với sự làm lơ vô tình của người dân miền Bắc thì
cho dù có một trăm ông Phan Thanh Giản, một trăm ông
Nguyễn Tri Phương, một trăm ông Trương Định thì nước
Việt Nam trước sau gì cũng phải rơi vào tay của bất
cứ đoàn quân viễn chinh xâm lược tân tiến nào của phương
Tây.
Lên án, hạ bệ, đập phá, xóa tên chỉ là những hành vi
bộc phát nhất thời xảy ra trong bất cứ cuộc chiến tranh
nào để tuyên truyền giành phần thắng và đoạt chính quyền
nhưng những hành vi nầy không thể xóa bỏ được những
sự thật lịch sử và vì vậy không cần phải biện bạch để
đưa ra ánh sáng sự sai trái của những hành vi đó.
|