Những Tháng Ngày Hoang Dại 1

Nguyễn Tăng Tri, Canada


Cứ mỗi lần xem phim truyện của VN hoặc của những nước chậm phát triển,thấy có những đứa trẻ thiếu đồ chơi là lòng tôi lại bồi hồi nhớ về dĩ vãng…

Thuở ấy, tôi học lớp tư (lớp 2 sau nầy) tại trường Tiểu học Vĩnh Điện, ba tôi đưa tôi và bà nội tôi ra Vĩnh Điện ở không phải là do ly thân hay ly dị với má tôi mà vì tìm đường “tha phương cầu thực” để gia đình khá hơn, mặc dầu VĐ chỉ cách nhà tôi ở quê làng Phú Bông, Xã Phú Phong trên một cù lao mà sau nầy tôi mới nghe tên là Gò Nổi. Không biết có phải là nó thường hay bị lũ lụt nhấn chìm hay không? Nhưng rất nhớ nhà !

Ơ Vĩnh Điện, có trường tiểu học Vĩnh Điện công lập, và trường Trung học Nguyễn Duy Hiệu nổi tiếng cũng công lập, nhưng chỉ đến hết đệ nhất cấp. Muốn học lên cao hơn,tôi đoán là HS trong quận phải cơm vắt,muối mè lôi bộ xuống Hội An để học trường TH Trần Cao Vân cũng công lập. Hoặc ra Đà Nẵng để học trung học đệ nhị cấp.

Trường TH Vĩnh Điện chỉ là một dãy nhà 4 că n “xây xông” ( tôi không hiểu chữ nầy có từ đâu? Có lẽ chữ xông nầy đọc phiên âm trại ra từ chữ Pháp), lợp “tôn “( cũng trại ra từ tiếng Pháp). Nằm trên một con đường lót đá “ba lát “(từ chữ Pháp nữa), cô giáo dạy lớp tôi tên gì tôi không còn nhớ rõ, và các đứa trẻ cùng học lớp thì càng không nhớ rõ! Trong ký ức tôi.Con đường nầy nằm song song với Quốc lộ 1 về phía đông, chung quanh là ruộng lúa. Xa hơn về phía Hội An, là một ao sen lớn, chính giữa ao sen là một pháo đài cao có thành cao bao bọc chung quanh. Pháo đài nầy của quân Pháp đã rút đi còn để lại và nơi đó có lẽ là kho đạn dược và vũ khí, mà người lớn còn không ai dám tới gần huống chi con nít như tôi.

Nhưng cái ao sen lại khác, bông sen thơm ngát, những gương sen to và đầy hôt vô cùng hấp dẫn… và dưới nước thì còn có cá nữa: cá rô nhiều nhất, rồi đến cá tràu (cá lóc:tiếng miền nam, cá quả: tiếng miền bắc), cá trề, cá bống,cá lia thia…

Một thằng bé 7,8 tuổi có lẽ không bao giờ dám lôi xuống ao sen ấy nhất là chỉ mới đến ở gần đó chưa được bao lâu. Nhưng tôi có người rủ…

Ba tôi thuê môt căn nhà mặt tiền trên con đường Quốc lộ 1, cách ngã tư chỉ có vài căn (một ngã rẽ xuống Hội An,một ngã rẽ về Bến Đá là bến đò chính, đi thẳng thì về phía nam)).Ngã tư có Nhà Thông Tin, bến xe đò thì ở gần cầu Vĩnh Điện có tiệm nem ba Phận nổi tiếng ngon.

Trước nhà có sân trồng một hàng cây so đũa, bông trắng có mật ngọt mà tôi đã từng hút nó, trái của cây so đũa dài như đậu đũa(chắc là vì dài như đũa),các con chim chào mào mồng đỏ hay đáp tại đây, và cây còn có sâu đo ,sâu rọm(róm:tiếng bắc) nên cũng có nhiều chim sâu, ở quê bà nội tôi là Cẩm Lậu còn có rất nhiều tổ chim dòng dọc lủng lẳng trên những tàu lá cau cao ngất. Như những đứa trẻ khác,tôi rất thích chim,cá,cây cỏ hoa lá muôn màu. Có những lần về nhà ông ngoại tôi ở tận Đo Đo, đi hái trái sim, chà là, bông Dỏ dẻ thơm thật thơm có 3 cánh dày, cả trái của cây mây cũng ăn được.những trái xoài chin hoặc xanh đều ăn tuốt, ổi, mận,u-mơ(miền nam gọi là trứng gà vì trái chin và “cơm” củ nó có bốt và màu da cam giống như lòng đỏ trứng gà? Còn miền Bắc thì có một tên gọi khác mà tôi quên mất! ). Ổi thì chỉ có ổi tẻ, ổi xá lị lớn và thơm ngon thì chỉ sau khi có ông Viên nhứt là chú họ của ba tôi đem giống về trồng mới có.Mì Quảng thì có những gánh mì Phú Chiêm đem lên quê tôi để bán, rất ngon, lá mì làm bằng gạo thơm nàng huơng,  nhưng (nước sốt )làm bằng tôm, cua ,thịt ba chỉ(ba rọi),có khi là cá tràu,thịt gà…và rau thì có: giá, tần ô, cải bẹ xanh(cải cay)  non, húng lủi, thỉnh thoảng có thể có rau răm. Ngoài ra có đậu phụng(phộng,lạc), bánh tráng mè nuớng vàng ,bóp nhỏ, và nước mắm nguyên chất không pha và ớt tỏi giã dập.và sứa biển (jelly fish)

Một thức ăn nữa  là nhộng xào với thơm (dứa, khóm), nhộng chiên xúc bánh tráng. Bò thui ăn với rau chấm mắm cái, đặc biệt là con mắm cá cơm thịt còn đỏ mà có trộn với gừng giã thì tuyệt vời, mà trước năm 1975 có quán ăn Thái Ngư ngaygần ngã tư Hùng Vuơng Khải Định , Ông Ich Khiêm, Góc đối với chợ Cồn Đà nẵng, (mà tôi thường được thưởng thức vào những ngày cuối tuần ở những mùa thi do má tôi cho bồi dưỡng), ăn bò thui và uống bia Hamm của Mỹ thật tuyệt vời.

Căn nhà trệt nầy cũng xây xông ,lợp tôn chia làm 2 cho 2 người thuê là ba tôi và bà Tiên (khi nghe bà Tiên, tôi cứ tưởng là bà tiên trên trời,nhưng sau nầy tôi thấy bà ấy cũng tốt như tiên trên trời), bà Tiên có 2 người con trai,anh đầu tên Thiện,anh sau tên là Xí, cả 2 anh lớn hơn tôi cỡ 4,5 tuổi nhưng dáng người đã là thanh niên.

Cả 2 anh đều học trung học, 2 anh thường rủ tôi chơi bắn bi, làm ná bắn chim, bắt cá lia thia cho tôi…nên tôi đỡ nhớ nhà (má tôi anh cã tôi và 3 đứa em trai tôi còn ở trong quê, ông nội tôi đã mất sớm vì bệnh sốt rét năm 1948,khi tôi chưa được sinh ra và  khi cả gia dình di tản lên tận vùng biên giới với Lào vì chiến tranh ).

Có một ngày cuối tuần kia, anh Thiện và anh Xí rủ tôi đi bắt cá lia thia, tôi rất thích lén ba tôi và bà nội tôi đi cùng 2 anh ra ao sen, anh Xí và anh Thiện nhảy ào xuống ao lôi nước đến ngang thắt lưng tay cầm vợt vớt cá, tôi ngồi trên bờ không dám xuống nước vì thấp người hơn vì sợbị chết đuối. Nhưng một lúc sau thì không chịu nổi hấp dẫn của cá lia thia nên liều mạng bước xuống ao. nước ngập đến cổ. nhưng cứ đi theo 2 anh đàng trước. Thỉnh thoảng 2 anh lại cúi xuống mò tìm dưới đáy ao và lượm lên một dây đạn còn nguyên rửa đi rồi giao cho tôi cầm, một tay tôi cầm cái hủ bằng thủy tinh, một tay cầm các dây đạn. cà 2 anh cứ vừa vớt cá vừa mò dây đạn, thỉnh thoảng ngắt một gương sen bẻ ra lấy hột xanh vừa ăn vừa cho tôi ăn. Có khi nguyên một buổi sáng cuối tuàn chúng tôi thu hoạch được nhiều cá và đạn cùng với gương sen đủ ôm trên tay, câm gương sen là “đau” nhất vì nếu bẻ gương sen khỏi cuống thì không cầm đuợc nhiều nên 2 anh để nguyên cả cuống, mà nó có gai nhọn nên phải lấy lá sen bọc quanh một bó,gai cũng thỉnh thảng đâm lủng lá sen , đâm vào tay đau lắm, nhưng muốn có thì phải chịu đau( sau nầy tôi biết câu:”không có con đường trải hoa nào dẫn đến vinh quang” mà tương tự, theo tiếng Anh: “there is no gain without pain” là vậy!).
Về đến nhà, 2 anh kiếm lọ, chia cho tôi cá lia thia để ra một bên, lột hột sen ra khỏi gương và cho tôi rất nhiều,tháo các viên đạn ra khỏi các vòng bằng thép,các viên đạn có đầu tròn (sau nầy tôi biết đó là đạn của súng carbin), sau đó 2 anh lấy kềm kẹp đầu đạn và vỏ đạn vặn ngược vặn xuôi một vài lần  rồi rút đầu đạn khỏi vỏ đạn, đổ chất bột đen lẫn trắng ra một tờ giấy. Tôi trố mắt dòm một cách đầy thích thú vì với tuổi ấy thấy súng đạn thì ai cũng sợ, nhưng 2 anh thì chẳng sợ. Khi xong việc 2 anh gói bột thuốc đạn lại, bỏ đầu đạn vào hôp giấy,cất đi rồi bảo tôi về nhà mà không giải thích gì thêm…

Khoảng vài ngày sau anh Xí gọi tôi ra sân sau nhà (sân chung), đem theo một số lông đuôi gà ,dây thun cao su ( vì nhà bà Tiên bán tạp hóa nên có nhiều dây thun,cũng là món đồ chơi mà tôi vô cùng khoái!), búa và đinh lớn… Anh bắt đầu chế tạo …đồ chơi.(Lúc nầy là gần Tết nguyên đán, nhà giàu thì đã bắt đâu mua vải may đồ mới, bánh mứt kẹo, nếp để nấu bánh tét…nên nhà bà Tiên rất bận rộn, anh Thiện bị “hành” phải đứng phụ với bà Tiên nên chỉ có anh Xí làm đồ chơi).

Anh Xí đóng cây đinh lớn vào chì của đầu đạn (đầu đạn có đồng đỏ bọc bên ngoài, ở giữa là chì), rồi ngoáy cho nó rông  thành một cái lỗ, cột đầu đạn ở phía mặt bằng với 2 chùm dây thun lớn đối xứng nhau qua tâm, để qua một bên.

Lựa 3 cái lông đuôi gà dài bằng nhau, anh cột cuống đuôi gà quanh một đoạn cây đũa tre lớn và tròn .Sau đó anh lựa một cây đinh thật thẳng, dùng đục chặt ngang cây đinh ở gần tán đinh, bỏ tán đinh, mài tròn đầu đã chặt, để nguyên phía nhọn, anh buộc  một chùm vài dây thun to sợi bao quanh cây đinh, cột đầu kia của chùm dây thun vào  cây đũa ló ra ở phần cuống đuôi gà. Đầu cây đinh đã mài nằm trong cái lỗ, đầu kia nối  với cuống đuôi gà bởi 2 chùm dây thun  thun, muốn rút cây đinh ra khỏi lỗ, phải kéo mạnh mới được. món đồ chơi đó anh cho tôi để chơi trong những ngày Tết…

Sau khi có một cái đồ chơi, tôi chưa biết  chơi ra sao thì anh đã chỉ cho tôi cách chơi, anh lấy gói bột đen lấm tấm trắng ra, khều ra một ít trên tờ giấy rồi gấp tờ giấy lại đổ bột nầy vào cái lỗ trên đầu đạn, (cây đinh đã được kéo ra khỏi lỗ),rồi anh đặt cây đinh vào lỗ  sửa lại cho ngay tâm. Anh lựa chỗ nền sân có tráng xi măng anh phóng cái đồ chơi lên trời, nó rớt xuống đất xoay tròn rồi rớt xuống đất , đầu đạn chạm vào nền đất phát ra một tiếng nổ lớn như pháo tết, và dặn tôi nếu chơi hết thuốc đạn, thì lấy các cây diêm quẹt cạo ra bô vào lỗ để chơi. Đây là món đồ chơi “hiện đại”nhất đấu đời có góp công sức của tôi mà vật liệu “free”.

Có một lần khác, trời mưa tầm tả, các ruộng sau nhà và các nơi ngập hết,anh Thiện rủ tôi đi xem bắt cá, cả 2 mặc áo ‘tơi” (là một cái còng bằng tre hoặc dây mây,và kết là tre từng lớp chung quanh có dây dừa tròng qua cổ buộc lại)anh Thiện đưa tôi đền một căn chòi lá làm vội vã trên một mương nưóc rông để dẫn nước vào ruộng, chòi nầy do bạn của anh làm.Tôi được anh dẫn đi nhưng đến chõ hẹp phải đi hàng một thì tôi trượt chân rớt xuống ruộng, ướt hết. nh lôi tôi lên đi dến căn chòi.

Căn chòi rất đơn sơ, có 4 cây cột, trên có mái tranh, sàn là  một chiếc vạt giường lớn, đặt nghìng nghiêng cở 30 độ, cuối vạt giường mới là chỗ bằng ngang, làm bằng các cây tre kết lại như cái bè, ở đó anh để nồi niêu soang chảo và các đồ nấu nướng, củi lửa, nuớc mắm muối gia vị ở môt góc. Phía kia, anh để chiếc chiếu và mùng mên chiếu gốc, trên vách phên treo vài đồ dung cần thiết và áo quần trên những chiếc cọc tre. Vừa vào một lát, tôi thấy trên chiếc vạt giường nằm nghiêng có nhiều cá bị mắc lại,lớn có nhỏ có nhảy tung tăng đủ loại, anh bạn anh Thiện lấy vợt vớt nó lên, đổ vào cái thau nhôm lớn rồi lấy nước trong chiếc lu gần đó rửa cá trong chiếc thau nhôm, rồi đổ vào chiếc nồi đất để chiên cá. Lúc nầy đã đói bụng, anh mời tôi và anh Thiện ăn cá chiên, anh lấy ra một chai rượu đế rót ra một cái ly nhỏ mời anh Thiện rồi mời tôi, tôi còn nhỏ không uống nhung anh Thiện nói mi mỏi té xuống nuớc lạnh lắm nên cứ uống đi cho ấm, tôi ực một cái thấy nóng lên trong người ngay. 2 anh và tôi cứ vậy vớt cá ,,chiên rồi uống ruợu, tôi uống chỉ vài ly thôi nhưng người cứ lâng lâng và buồn ngủ, đến khi tỉnh giấc thì trời gần tối, anh Thiện đưa tôi về nhà, bưã cơm chiều hôm đó tôi không ăn cơm nhà vì đã ăn cá quá đã rồi.

Đó là những kỷ niệm với những người anh, những người bạn vong niên có những sự khác biệt về gia cảnh, kẻ nghèo ngưòi giàu hơn, nhưng sống rất hồn nhiên thân thiết.

Những kỷ niệm nầy theo tôi suốt cuộc đời và cũng là một trong những tiêu chuản của tôi để quan sát và so sánh các quan hệ với những người đã và đang tiếp xúc. Vì trong lúc ba tôi cùng thuê nhà với bà Tiên, nhưng người cô họ củ ba tôi là chủ nhà, giao chìa khóa cho bà Tiên và cấm bà Tiên không cho phép gia đình tôi được dung cầu tiêu vì sợ đầy hầm cầu sớm, (mặc dù bà Tiên không muốn như vậy! ),  vì sẽ tốn tiền rút hầm cầu sớm,đã khiến cho tôi ,bà nội tôi và ba tôi phải đi xa ra cánh đông kể cả lúc trời mưa hay bão! Tôi đã chịu cảnh nầy suốt 1 năm học tại Vĩnh Điện!

Đã hơn 50 năm qua đi, chiến tranh đã gây ra bao cuộc chia ly, các anh Thiện và  Xí không biết có còn sống không hay đã bỏ mình tại một nơi nào trên quê hương qua các trò chơi súng đạn ? Hay qua đời vì  tai nạn, vì chiến tranh, bệnh tật hoặc trên biển cả mênh mông? Giờ nầy các anh đang ở đâu?

Tuy chỉ gặp các anh trong tuổi ấu thơ nhưng các anh đã để lại trong tôi rất nhiều kỷ niệm sâu lắng khó quên!

                                                                Toronto, 26/10/2011
Nguyễn Tăng Tri