Quảng Nam
có văn học, văn chương từ bao giờ!
GS
Nguyễn Văn Xuân
Câu
hỏi đó rất khó trả lời.
Vì người Quảng Nam thật sự xuất hiện và được biết
tới là vào những thời Trần, Hồ, Lê, Mạc trong hai
vùng Điện Bàn và Thăng Hoa (tên hai phủ của Quảng
Nam xưa). Tên Quảng Nam chỉ xuất hiện để chỉ một
xứ: xứ Quảng Nam bao gồm từ Thăng Hoa đến vùng nay
là Bình Định - Điện Bàn thuộc về xứ Thuận Hoá (nay
là Thừa Thiên Huế) bên kia Hải Vân.
Cho đến thời Nguyễn Hoàng mới rút Điện Bàn ra khỏi
Thuận Hoá để thành Thăng - Điện. Sau 1802, khi lập
tỉnh mới gộp hai phủ ấy lại thành tỉnh Quảng Nam.
Khi còn là Thăng, Điện, ở đây sự học chưa thực sự
mở mang và những chức vụ lớn đều ở trong tay người
Đàng Ngoài. Tuy vậy, theo các sách do người Pháp
viết để lại, bấy giờ đã có diễn tuồng. Mà muốn diễn
phải có tuồng bản. Sự thật văn tuồng có thể được
xem là văn học cổ nhất, nhưng không thấy lưu lại
bản nào. Còn văn học dân gian thì chắc đã có từ
lâu, nào hò, nào vè, hò khoan, ca dao, tục ngữ.
Ví dụ những câu sau đây cho biết tình trạng Hội
An khi còn nghèo:
Hội
An bán gánh, bán lều
Kim Bồng
bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Cho tới khi Hội An giàu có thịnh vượng:
Hội
An bán gấm, bán điều
Kim Bồng
bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Kim Bồng là vùng cách Hội An một con sông. Vùng
ấy về sau chuyên về xây dựng và nghề mộc khá tinh
xảo. Còn Trà Nhiêu là một đầm rộng lớn để tàu thuyền
ngoại quốc vào đậu. Cửa Đà Nẵng chỉ dành cho các
tàu thuyền lớn có tính cách tiền cảng. Vào thời
xa xưa, chưa có tàu thuyền lớn thì chắc chắn Hội
An giữ vai trò chuyên biệt thương mại của Hội An.
Sự lớn mạnh của thương mại và xuất nhập của tỉnh
Quảng Nam (chứ không còn là xứ Quảng Nam) bắt đầu
từ triều Nguyễn.
Biết
bao giờ trả cho hết nợ Cao Hoàng.
Đào sông
Cao Nhí, đắp đàng Bông Miêu.
Câu ca dao nói lên thực tế xa xưa đó. Dưới
thời Minh Mạng, đào sông Vĩnh Điện, sông này mở
khẩu từ làng Câu Nhí nên cũng mang tên ấy và rất
thuận lợi tiếp nối với sông Hàn, biến nơi này thành
nơi tụ hội một hải đội chuyên xuất khẩu.
Từ Hội An ra cửa Hàn, sao bạn lại không lên đường
đi chơi đèo Hải Vân và Hải Vân Quan. Tôi thấy mấy
ông nhà văn, nhà thơ ngày trước như Nguyễn Tuân,
Đoàn Phú Tứ, Lưu Trọng Lư... thỉnh thoảng vào Quảng
Nam, lại rủ nhau lên đỉnh đèo uống rượu trước trời
cao, biển rộng và mây trắng bay sau các lùm cây.
Các tiệc rượu như thế thanh tao và thanh cao biết
bao nhiêu. Các du khách còn được xem lại cửa ải
xưa, nơi lập ra để ngăn chặn quân địch đổ bộ vào
Đà Nẵng để kéo quân ra Huế đánh kinh đô.
Cũng tại con đèo núi tiếp núi này, nơi:
Chiều
chiều ra đứng Hải Vân
Chim kêu
ghềnh đá gẫm thân lại buồn.
Chắc đây là tiếng than thở của dân làng bị
định cư tại lưng đèo để bảo vệ đèo hoặc của một
phụ nữ nào đó sống trong quạnh quẽ, cô đơn. Tuy
vậy, vào ngày nắng sáng mùa hè, chính mắt tôi đã
từng trông thấy những lẵng hoa vĩ đại rực rỡ chói
chang. Đó là một loại hoa màu mát dịu như hoa rau
muống nhưng lớn hơn, trải khắp hết cụm núi này sang
cụm núi nọ, dưới chân lại có loại hoa vàng đậm như
để đan viền cho những tấm thảm khổng lồ, bất tận
kia.
Tôi mời bạn đến với Ngũ Hành Sơn. Thời xa xưa, trước
Minh Mạng có tên cúng cơm Non Nước trải qua nhiều
thế kỷ. Cuối thế kỷ XVII, chúa Hiển Tông Nguyễn
Phước Chu (1691 - 1725) có mời một đại sư Trung
Quốc sang xứ Đàng Trong. Nhà sư đến Non Nước chơi
và khi trở về có viết tập Hải ngoại ký sự - Viện
đại học Huế ấn hành bản dịch năm 1963. Ông khen
cảnh đẹp, cảm hứng làm nhiều bài thơ ca tụng Tam
Thai (tức Non Nước). Ông cũng trách thi nhân ta
đã không biết thưởng thức cảnh đẹp, không dùng đề
tài ấy để ngâm vịnh.
Khi tôi lớn lên, không cần ông động viên (vì sách
của ông chưa ai biết) thấy các sườn núi đã đầy ngập
những thơ Hán, Nôm, dở hay, làng nhàng cũng đều
có, thường dân, danh sĩ cũng có. Những người Quảng
Nam thường thích đọc hai bài (không rõ có đục vào
sườn núi hay không) của bà Bang Nhãn và ông Thái
Duy Thanh.
Bài của bà Bang Nhãn có khẩu chí chân tình:
Núi
chen sắc đá màu phơi gấm
Chùa nực
hơi hương khói lộn mây
Bài của Thái Duy Thanh độc đáo:...
Ngó
lại, ngó qua năm đống đá
Tu lên,
tu xuống mấy ông thầy
Lên đài
Vọng Hải trông xa tít;
Vào động
Huyền Không ngó trống quầy
Lếu láo
ngâm đưa đôi chén rượu,
Cõi trần
khi cũng có tiên đây.
Ngũ Hành Sơn là cái tên mới đặt thời vua Minh
Mạng. Đó là nơi vua Minh Mạng, Thành Thái đến xây
dựng hoặc vãn cảnh. Lại có một bà công chúa đến
tu. Đây là nơi người Quảng Nam rất tôn trọng, xem
như “Địa linh nhân kiệt”, nơi tạo ra những nhân
tài xuất chúng. Học trò thời trước thường đến vãn
cảnh và trước khi ra Huế thi Hương, thi Hội vẫn
có mặt ở đây để xin được phù trì. Những cảnh đẹp
nào Huyền Không động, động Chiêm Thành, nào Vọng
Hải Đài, Vọng Giang Đài, nào các chùa danh tiếng,
nào những bậc cấp khéo xây, huyền thoại ly kỳ về
con rắn biển đã tạo nên cửa Đà Nẵng, sông Hàn rồi
đẻ trứng tại đây hoá thành núi... Một thi nhân cũ
tặng cho Ngũ Hành Sơn một câu thơ đầy ý nghĩa “Núi
thấp hơn hết mà danh cao hơn hết” (dịch).
Bạn đã biết các khu vực nổi tiếng qua ca dao. Nhưng
thiếu sót biết bao nếu không ngược dòng Thu Bồn,
viếng xem những cảnh trí khác cũng rất nổi tiếng
thời xưa - chúng ta có thể từ Hội An ngược lên.
Bạn sẽ thấy, trước hết cùng nước bao la xa đổ về
biển. Ấy là vùng Trà Nhiêu. Cũng tại cái đầm vĩ
đại mà chắc chắn thời Chiêm Thành lập kinh đô tại
đây, nó cũng đóng vai trò Chiêm cảng. Ngược sông
Thu Bồn đến cầu Câu Lâu, nhìn qua hướng bên phải
là một dải đất rộng, nơi có những làng Phú Chiêm,
Thanh Chiêm vốn rút từ Chiêm của Chiêm động ra.
Lại ngược sông nữa, bạn sẽ gặp một vùng gọi là Gò
Nổi. Đây là vùng trù phú nổi tiếng về dệt các mặt
hàng vải, tơ lụa. Cũng vì có tơ lụa nên có những
ruộng dâu xanh ngắt. Các cô con gái làm nghề tằm
tang quen ở trong bóng mát nên có tiếng xinh đẹp
nhất.
Cũng vì có dâu xanh lúa tốt, nên Gò Nổi sản xuất
biết bao danh nhân lững lẫy trong học vấn, trong
chính trị - từ Hoàng Diệu đến Phạm Phú Thứ, từ Trần
Cao Vân đến Phan Thành Tài. Riêng một họ Phan, về
lớp sau cũng sản sinh những Phan Khôi, Phan Thanh...
thú vị hơn nữa là những cô gái Bảo An xinh đẹp một
thời.
Lại ngược dòng nữa, trải qua những di tích cũ-mới,
ở đây có lễ hội hằng năm ở miếu thờ bà Thu Bồn -
và các địa danh nổi tiếng.
Rồi bạn đến nơi có ca dao ai cũng biết:
Ngó
lên Hòn Kẽm, Đá Dừng
Thương
cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
Từ nguồn xa xôi, nước đổ về đây rồi dừng lại,
chậm lại ở Hòn Kẽm, hai bên có đá dựng. Nước tạo
nên một dải giống hệt một cái hồ tuyệt đẹp gợi cho
chúng ta cảm tưởng “Non bồng, nước Nhược” cực kỳ
êm ả. Nếu có một con thuyền nhỏ, bạn cùng người
yêu đưa nhau đi trên hồ thiên tạo này, bạn sẽ cảm
thấy thế giới “Kinh tế thị trường” dưới kia sao
mà ồn ào, trần tục đến thế. Ở đây có bãi cát đẹp,
bạn có thể đóng trại một hai hôm để thưởng thức
tinh tuý tươi mát trong lành của trời đất.
Nói đến cảnh đẹp Quảng Nam mà quên “Hòn Kẽm Đá Dừng”
cũng như quên “Mỹ Sơn thánh địa” của Chiêm Thành
thì phải nói là chưa đủ đấy! Nhất là quần Tháp và
các di vật lưu lại ở vùng thung lũng dưới sự chứng
kiến đời đời của ngọn núi Quắp độc đáo mang tính
thiêng liêng khó hiểu. Có đến Mỹ Sơn bạn mới có
sự thông cảm sâu sắc hơn với cổ viện Chàm tại Đà
Nẵng, một cổ viện không đồ sộ nhưng danh tiếng lớn.
Một thi sĩ xưa vịnh câu này và Huỳnh Thúc Kháng
coi là tuyệt hay “Núi thấp nhất nhưng danh vọng
cao nhất” như đã nói, ta cũng có thể gán câu đó
cho cổ viện Chàm.
Nói đến Quảng Nam, người ta hay nhắc chuyện học.
Người Quảng Nam cũng tự tin, tự hào về mặt này.
Họ lại cũng hay nhắc về “Ngũ phụng tề phi”. Tôi
nhớ trước kia, các sinh viên Quảng Nam có đề nghị
tôi phát biểu về sự kiện này. Tôi cũng cho đó là
điều đáng quan tâm qua những kỳ thi Hội, thi Đình
ở một vài tỉnh. Ba tiến sĩ, hai phó bảng cùng đỗ
một khoa thi thì cũng đúng là “năm con phượng cùng
bay”. Nhưng trong việc học, bằng cấp cao đến đâu
cũng chỉ đánh dấu sự khởi đầu... Điều quan trọng
nhất của việc học hành, chính là đậu để làm gì?
Để lập sự nghiệp. Năm nhà đại khoa đó có sự nghiệp
chính trị, văn hoá, học thuật nào? Tôi không thấy.
Vậy ta nên coi đó là giai thoại giúp cho các bạn
trẻ phấn chấn hơn trong việc học hành. Học giỏi,
đậu cao, phụng sự đất nước, có sự nghiệp xứng đáng,
lưu danh là điều đáng quý, đáng trân trọng, noi
gương. Song đã có “Lục phụng bất tề phi”. Phạm Phú
Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu
(phó bảng), Trần Qúy Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến
sĩ), Phạm Như Xương (Hoàng Giáp) và ngoại trừ Phạm
Như Xương ít hiểu biết nên cho dù ông bỏ quan để
theo Nghĩa hội Quảng Nam rồi sau đó là chỗ dựa bí
mật và là cố vấn cho Quang Phục Hội (phong trào
Đông Du của Tiểu La và Phan Bội Châu). Nếu nói học
thì ông có học vị cao nhất khắp miền Nam, còn hành
thì ông hành động như một đại trí thức.
“Lục phụng bất tề phi” mới thực sự nêu gương cho
người Quảng Nam và Việt Nam để tuổi trẻ biết thế
nào là học và hành”, bây giờ và cả trường kỳ lịch
sử. Ví như Phạm Phú Thứ, đỗ song nguyên (cử nhân,
tiến sĩ đầu) khi sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông
Nam Bộ, đã chuyên tâm viết bộ Du ký lừng lẫy (Tây
hành nhật ký) đến nay còn giá trị đối với lịch sử
trong nước và thế giới. Vậy mà lúc về, không quên
mang theo về cái xe đạp nước kéo bằng trâu theo
kiểu mẫu Ai Cập, gọi là xe trâu. Phan Châu Trinh
khi ở Côn Đảo là tay câu cá giỏi, sang Pháp là “xếp”
một câu lạc bộ câu cá và kiếm sống bằng nghề thợ
ảnh đồng thời là tác giả bao nhiêu bộ sách chính
trị vang động giới chính trị Pari (Việt và Pháp).
Trần Quý Cáp chuyên nghề bút canh (Cày ruộng bằng
bút) là thầy đồ tiếng tăm, cả các tỉnh Nam ra học
và nhờ đó ông mới hướng đạo được cuộc Nam du của
ba chí sĩ (Phan, Huỳnh và Trần) đã là bậc giáo thọ
tử vì đạo. Ông Nguyễn Ái Quốc trong Bản án chế độ
thực dân Pháp đã đề cao “Ông nghè Trần Quý Cáp,
một nhà nho thanh cao ai cũng kính phục”. Ông là
nhà hùng văn và hùng biện. Huỳnh Thúc Kháng (cũng
song nguyên) là người học trò nức tiếng thuở trẻ.
Khi đi tù Côn Đảo, ông học làm đồi mồi và quản lý
sở buôn. Ông trở về đất liền trên tay có bộ từ điển
Pháp Việt mà người ta bảo ông học thuộc lòng từ
đầu chí cuối. Với nghề đồi mồi, ông đã thực hành
và đưa các mặt hàng mỹ nghệ nữ trang đi chào để
xuất khẩu sang Pháp và sau này, ông tự đứng làm
quản lý cho công ty Huỳnh Thúc Kháng (nhà in và
báo Tiếng Dân). Cũng cần nhắc thêm 1905, ba nhà
đại khoa này đã giúp Phan Thiết lập công ty nước
mắm Liên Thành đầu tiên. Học như thế mới gọi là
học, và nêu cái gương học vấn cho dân, cho nước.
Lục phụng này mới thật là phụng hoàng không thẹn
cùng nhật nguyệt.
Còn không học đúng ra là không có bằng cấp thì cũng
có nhiều tay cự phách: Tiểu La, Trần Cao Vân, Thái
Phiên, Phan Thành Tài, Phan Khôi…
“Đất Quảng quê tôi” còn nhiều điều để nói, với tính
đặc thù của nó, hầu góp phần vào kho tàng văn hoá
nước nhà, đang đi lên trong sự nghiệp đổi mới.
GS
Nguyễn Văn Xuân