KHI CON ĐƯỜNG KHÔNG LỐI THOÁT
(Phan Xuân Sinh)

Sau nhiều đêm suy nghĩ, không còn cách nào khác hơn chị dẫn con về quê anh gửi cho bà nội chúng nó, dù chị biết rằng đó là một gánh nặng cho bà. Nhưng giữ chúng nó thì lấy gì ăn? Có rảnh tay rảnh chân thì mới bương chải kiếm tiền nuôi con, trong lúc chồng còn trong trại cải tạo. Chứ còn ôm lấy con thì chết đói sao? Vì vậy, chị mang các con về giao cho bà nội, một giải pháp mà theo chị cân nhắc là ổn thỏa nhất. Chị sẽ đi buôn bán gửi tiền về nuôi bà cháu. Chị đón xe lam dẫn hai con về quê của anh ở Đại Lộc, mà có lần chị theo anh về đó thăm mẹ. Căn nhà tranh vách đất chỉ kê được một cái bàn thờ nhỏ ngay giữa nhà và bên cạnh một cái chỏng tre. Bà mẹ chồng ngồi trước cửa với một mẹt khoai sắn bán cho sắp nhỏ hàng xóm, trông thấy ba mẹ con chị, bà đứng dậy ôm lấy các cháu vào lòng. Lâu quá bà cháu không gặp nhau, nước mắt bà tuôn xuống một cách tự nhiên, vừa thương cháu côi cút thiếu vắng cha, vừa thương con đói khát trong trại cải tạo.

Chị nhìn mấy bà cháu ôm nhau mà lòng chị sắt se. Chị có nên để các con ở đây cho bà không? Làm sao bà trông các cháu được vì bà quá già yếu, bà tự lo lấy thân bà chưa nổi, làm sao bà lo cho các cháu. Thế nhưng, không giao con cho bà trông coi, thì làm sao chị đi kiếm tiền, rồi lại cùng chết nhau cả nhà. Đằng nào cũng phải chọn một giải pháp để cứu lấy gia đình. Chị chần chờ mãi tìm cách mở đầu để thuyết phục được bà chấp nhận nuôi giùm hai đứa con của chị. Lòng chị quyết như vậy mà miệng chị không mở ra được, nhìn thấy bà đi lại chậm chạp khó khăn, chị không thể nói với bà cái điều mà bà không thể làm được. Bà và chị đều im lặng, hình như bà đọc được những gì trong thâm tâm chị đang khắc khoải.

Bà mở đầu để tìm cho chị một lối thoát:
“Có cái gì khó khăn lắm con muốn nói với mẹ, phải không?”.
Chị cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mặt bà:
“Thưa mẹ, con muốn gửi hai cháu ở đây để con lo buôn bán, kiếm chút đỉnh tiền về nuôi mẹ và hai cháu. Từ ngày anh Toàn đi học tập, con phải bán đồ đạc trong nhà để nuôi hai cháu. Bây giờ thì không còn gì để bán ngoại trừ căn nhà. Con định bán luôn căn nhà, lấy số tiền nầy làm vốn. May ra nuôi sống được gia đình.”

Bà vẫn ngồi im lặng, nước mắt bà bắt đầu tuôn xuống. Có một cái gì đó đã làm cho bà nghẹn ngào không nói ra được. Làm sao bà từ chối một yêu cầu chính đáng như vậy, mặc dù bà biết, bà không có khả năng làm việc nầy. Các cháu của bà sẽ ra sao khi không có một nơi nương tựa? Một linh tính đã dằn vặt bà, một con dâu còn trẻ đẹp, sắp lăn xả vào một nơi chốn hỗn mang, biết bao nhiêu sự lọc lừa, sự tranh giành. Một thân gái dặm trường làm sao chống đỡ được những cạm bẫy đã giăng ra sẳn, chờ đốn ngã tất cả những mảnh đời lẻ loi, cô thế. Chuyện gì sẽ xẩy ra? Chỉ có bà và hai cháu của bà gánh chịu những phủ phàng mà không do mình gây ra. Biết thế, nhưng làm sao ngăn được. Đất nước đã khánh tận, con người đã sa vào cảnh bần cùng, mà khi người ta đã ở vào tình thế tận cùng nầy thì nhân cách và liêm sĩ không cần phải giữ gìn. Vì sự sống, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả.

Bà thở dài trước khi nói với con dâu:
“Thôi được, con cứ để hai cháu ở đây với mẹ. Con cứ ra đi. Ngày mai bà cháu sẽ dắt nhau ra chợ đi xin, không sao cả. Miễn sao mình sống thật với mình, dù đói khổ mẹ vẫn giữ cho hai cháu một cách sống lương thiện, chờ đợi cha chúng nó về. Trước khi đi, mẹ khuyên con một điều. Bao giờ con cũng nhớ là con còn có hai đứa con thơ dại, nếu con không chăm sóc được thì con cũng nghĩ lại để thương chúng nó. Mẹ già rồi, không biết còn sống để chờ đợi cha chúng nó trở về. Nhưng thôi, chuyện đã đến thế nầy thì phải chấp nhận, dù muốn dù không thì nó cũng không còn con đường nào chọn lựa, khi mà lòng người đã quyết như vậy.”

Bà đã nói như một lời trăn trối với chị, như một bát nước lạnh tạt vào mặt chị, để cho chị tỉnh người lại. Thế nhưng, không còn cách nào giải quyết tình cảnh bi đát của chị hiện tại. Chị muốn sống một cách thanh thản để chờ chồng trở về dù phải sống trong nghèo khổ. Ròng rã hai năm trời mòn mỏi, bây giờ chị phải tìm một lối thoát cho chị và cho các con chứ không thể ngồi chờ chết như thế nầy được. Chị hứa với lòng mình là chị sẽ cố gắng vượt qua tất cả để được đứng thẳng người, để không mang tiếng phụ lòng chồng con, để thiên hạ khỏi chê cười. Cùng một lúc bao nhiêu cái khó khăn vây quanh chị, cùng một lúc chị phải giải quyết những rối rắm từ tinh thần đến vật chất, làm sao cho được ổn thỏa. Chuyện các con xem như đã được yên vị. Bây giờ chính là lúc thực sự bắt tay vào công chuyện mưu sinh. Chị bước tới ôm bà mẹ chồng để tỏ lòng biết ơn, còn bao nhiêu tiền trong túi chị móc ra hết gửi lại cho bà để lo cho các cháu, ít nhất cũng được vài tháng để chị rảnh rang lo cho chuyện làm ăn. Chị bước đến ôm các con vào lòng, lần đầu tiên chị xa các con. Đến lúc nầy chị mới thấy lòng chị ray rứt, một cái đau đớn khó tả như có ai đó róc từng lớp da của mình. Chị khóc nghẹn ngào. Có ai thấu hiểu chia sớt giùm với chị nỗi lòng của người mẹ xa con. Nấn ná mãi rồi chị cũng dứt lòng ra đi, khi chiếc xe lam chở khách ngừng lại trước nhà. Xe chạy, chị vẫn còn trông thấy hai đứa con ngơ ngác nhìn theo. Chị cúi mặt không dám quay nhìn các con, lòng chị chùng xuống, chị kéo vạt áo lên lau nước mắt, nhưng hết lớp nầy tới lớp khác mắt chị không ráo được.

Đêm đó là đêm đầu tiên chị ngủ một mình mà không có các con bên cạnh. Thiếu đi tiếng cười, tiếng khóc của chúng, không làm sao chị chợp mắt được. Chị ngồi dậy rời khỏi giường đứng bên cửa sổ nhìn ra đường, đường khuya khoắt không còn một bóng người. Con phố nhỏ chìm trong màn đêm yên lặng. Chị quay vào nhà, nhìn căn nhà lần cuối, ngày mai chị phải giao căn nhà cho người khác, không bao giờ trở lại được nữa. Căn nhà nầy vợ chồng chị đã chắt chiu tạo nên, đã đầy ắp biết bao kỷ niệm, nó là cái tổ ấm của anh chị và các con. Bây giờ phải đành lòng ra đi, đứt từng đoạn ruột khi lìa bỏ nó. Chị đến ngồi bên góc nhà nấc lên từng tiếng. Chồng còn trong trại cải tạo, các con thì gửi cho bà nội, còn chị không biết phải tá túc nơi nào? Một sự chia lìa mà không biết lúc nào mới đoàn tụ được. Ngày mai chị sẽ nhận hai cây vàng của người chủ mới, rồi ôm gói áo quần rời khỏi căn nhà nầy. Không biết chuyện gì sẽ đến với chị, lành hay dữ đều phó thác cho số mạng.

Từ đó, sau cái đêm hôm ấy người ta không còn biết chị ở đâu, làm gì? Có thể chết mất xác ở đâu đó, hoặc chị đã bị bắt vì tội buôn lậu, hoặc sa vào con đường hư hỏng đang bị giam giữ. Cũng có thể chị đã chạy theo tiếng gọi của tình yêu mới và chối bỏ tất cả thời quá vãng của mình. Mọi chuyện về chị cũng chỉ trong vòng suy đoán của mọi người. Không có ai gặp lại chị để biết chính xác sinh hoạt của chị hiện tại, và như vậy mọi người thân tình cũng như quen biết với chị, đều nghĩ rằng chị đã chết.

*******

Bẳng đi một thời gian sau, hai đứa bé được đi theo diện HO qua Mỹ với cha. Anh vẫn không lấy vợ khác, sống vậy để nuôi hai con khôn lớn. Có một điều lạ là anh không bao giờ nói tốt hay xấu với các con về người mẹ của chúng. Anh xem như trong đời nầy anh chưa có vợ vậy. Suốt năm năm trong trại cải tạo, không có ai thăm nuôi, không biết tin tức gì về gia đình. Anh đã đoán ra được chuyện gì đã xẩy ra với anh, anh cắn răng chịu đựng không một lời than van với ai. Anh không trách vợ, một người đàn bà trẻ đẹp sống trong hoàn cảnh nhiễu nhương, không chịu đựng nổi khổ cực của cuộc sống làm sao không vấp ngã, để chạy theo những béo bở. Trong khi anh không biết ngày nào trở về, làm sao chờ đợi. Chị có thể phản bội anh, nhưng còn các con, chúng nó vô tội mà chị đành tâm dứt bỏ, thì cũng lạ thật. Anh rất ngao ngán không cần phải tìm hiểu thêm, không cần phải đi tìm chị. Anh lao đầu vào những công việc nặng nhọc để cốt ý kiếm ra tiền để nuôi mẹ và hai con. Sau khi “cải tạo” trở về, nhìn thấy mẹ và hai con đói khổ trong căn nhà lụp sụp, lòng anh quặn đau. Anh biết anh phải làm gì để cứu lấy gia đình.

Trước ngày anh và hai con rời khỏi Việt Nam theo diện HO, những người bạn cũ mời gia đình anh dùng một bữa cơm chia tay. Trong bữa cơm nầy, một người bạn cho anh biết đã gặp chị tại Nha Trang. Anh ngưng ăn ngồi lắng nghe người bạn nói về vợ mình, các con anh cũng vậy: “ Tôi gặp chị Hồng trong một quán ăn tại Nha Trang cách đây mấy tháng. Chị đi với hai đứa bé và một người đàn ông. Tôi nghĩ chắc là chồng sau nầy và con của chị. Tôi ăn xong tính tiền trước nhưng vẫn ngồi tại bàn để chờ chị, tôi muốn giáp mặt chị để xem thái độ của chị ra sao. Khi ăn xong người đàn ông đứng dậy đi ra trước để lấy xe, còn chị và hai đứa bé đi ra sau. Tôi đi phía sau và gọi chị. Chị Hồng, chị còn nhớ tôi không? Chị quay lui nhìn tôi sửng sốt, lặng người một hồi rồi chị trả lời. Xin lỗi tôi không quen với anh, hình như anh nhìn lầm người. Rồi chị vội vàng lôi hai đứa bé chạy ra chổ người đàn ông ngồi trên xe đang chờ. Tôi cũng vội vàng chạy đi lấy xe, chạy theo sau chị. Tôi biết được địa chỉ của chị đang sống ở Nha Trang, vì tôi thấy xe của chị Hồng quẹo vào một căn nhà, tôi lấy giấy bút ghi lại địa chỉ”. Người bạn móc trong túi quần lấy địa chỉ của chị Hồng đưa cho anh, nhưng anh lắc đầu không nhận. Đứa con gái anh ngồi bên cạnh, đưa tay nhận tờ địa chỉ của mẹ. Mặc dù bên ngoài anh tỏ vẻ không quan tâm đến đời sống của chị hiện tại, nhưng khi nghe người bạn kể về chị tự nhiên anh thấy đau nhói. Hơn mười sáu năm không thấy mặt chị kể từ ngày anh vào trại cải tạo. Trong lòng anh mọi chuyện đã nguội tắt. Bây giờ sắp sửa rời khỏi đất nước, anh lại nghe tin về chị, gia đình mới của chị xem như được hạnh phúc. Tự nhiên lòng anh cảm thấy nhẹ nhỏm, mang một tâm trạng vừa thương tiếc nhưng cũng vừa bằng lòng cho số phận của chị. Từ lâu trong thâm tâm anh cứ nghĩ rằng chị đã đi vào con đường trụy lạc, không thể rút chân ra khỏi, nên không còn mặt mũi nào nhìn anh và các con. Bây giờ tình thế không như vậy. Đáng trách chị hơn, nhưng cha con anh sắp sửa rời khỏi đất nước, thay đổi cả một cuộc sống, trong lòng anh không còn giữ một chút hận thù nào về chị. Anh xem mọi chuyện đời anh như là một định mệnh đã được an bài không trách ai cả.

Thế nhưng các con của anh thì không thể nào tha thứ cho mẹ, nhất là đứa con gái. Khi mẹ bỏ đi, cô chỉ mới ba tuổi, anh của cô năm tuổi. Cái tuổi của anh em cô cần sự chăm sóc dạy dỗ của mẹ. Nhưng mẹ cô thì đi mất, mang con bỏ chợ, anh em cô sống vất va vất vưởng, bữa đói bữa no bên bà nội mù lòa. Mẹ đi tìm một cuộc chơi khác, no thân ấm áo hơn, tiền tài danh vọng hơn. Anh em cô không có một tuổi thơ hồn nhiên như bao nhiêu đứa trẻ khác, phải ngụp lặn trong đống rác để mưu sinh, phải cúi mặt lầm lũi trong tủi nhục. Mới có bao nhiêu tuổi đầu đã nếm đủ mùi vị đắng cay cùng cực của cuộc sống. Từ khi đủ trí khôn để suy xét cô đã hận mẹ, dù rằng cô không còn nhận ra được khuôn mặt của mẹ mình. Cô cầm địa chỉ của mẹ trên tay, cô muốn vào Nha Trang ngay để hỏi cho ra lẽ, để nhìn thẳng vào mặt người đàn bà bội bạc mà mình phải gọi bằng mẹ. Đành đoạn dứt bỏ con cái còn thơ dại chạy theo tình yêu, một thứ tình yêu xác thịt. Người anh của cô không chịu để cho cô đi, bởi lẽ không còn bao nhiêu ngày nữa phải rời Việt Nam, không nên đi xa và cũng không nên gây rắc rối. Có làm cho ra chuyện cũng chỉ để hả cơn giận, chứ không giải quyết được gì.

Cô mang một tâm trạng oán hờn chồng chất thêm, khi biết được tin tức của mẹ hiện đang sống sờ sờ với một gia đình mới. Trước đây cô tin chắc rằng mẹ của cô đã chết, vì chỉ có chết thì mẹ mới không về thăm con. Một con vật còn biết che chở cho con, thương con huống gì con người. Khi nghe tin người bạn của Ba cho hay mẹ đang sống ở Nha Trang. Tự nhiên cô cảm thấy hụt hẩng, như có ai đó đâm ngay vào tim mình một nhát dao. Đôi mắt cay xé, nước mắt tuôn trào. Cô bỏ đủa đi vào buồng tắm, cô khóc trong ấm ức nghẹn ngào. Trời ơi, trên đời nầy sao có một loại người tệ bạc, không còn một chút xíu tình người như vậy sao? Mà người đó lại mẹ của mình. Một hồi lâu chờ cho nước mắt khô ráo, cô lau mặt, rồi đi ra ngoài ngồi vào chỗ của mình. Tất cả những người ngồi trên bàn bỗng nhiên yên lặng, nhìn cô như chia sớt với cô nỗi thống khổ, đọa đày nầy. Không còn tiếng cười nói như lúc đầu, khung cảnh chìm trong suy tư tĩnh lặng. Oán hờn nầy cô mang theo mãi mãi bên người.

Khi máy bay rời khỏi phi trường, còn bay trên không phận Việt Nam, ngồi bên cửa kính nhìn xuống, nào đất đai sông núi, nào nhà cao cửa rộng, nào quyền thế danh vọng, tất cả đã xa dần. Một mảnh đất nhỏ bé đó đã xẩy ra biết bao nhiêu tai ương thống khổ, để lại biết bao nhiêu thù hận ngút ngàn. Đày đọa biết bao nhiêu mảnh đời, trôi dạt biết bao nhiêu thân xác. Mảnh đất đã nuôi cô khôn lớn, đã dạy cho cô nhẫn nhục, nhưng cũng đã tước đoạt của cô thân phận làm người. Thế nhưng sao cô vẫn thấy yêu nó da diết, đứt từng đoạn ruột khi xa lìa nó. Ngay bây giờ cô mới cảm nhận được thế nào là lòng thương yêu, thế nào là lòng vị tha. Nếu có mẹ bên cạnh cô lúc nầy, cô sẽ không nói với mẹ một tiếng nặng nào, một lời xúc phạm nào. Cô xem như tất cả đều là mây khói, sẽ tan vào hư không. Không có ai làm sống lại thời dĩ vãng, sống mãi với dĩ vãng để rồi chìm trong dĩ vãng. Sống phải xăn tay áo dấn thân, phải gạt bỏ tất cả những chướng ngại để đi lên. Sống phải biết mình và vì người. Bài học từng trãi trong tháng năm khổ cực, đã dạy cho cô biết trân quý những giá trị của phẩm chất. Cô thấy được những cái sai trái để tránh, cái xấu xa để từ bỏ. Nhìn lại đất nước lần cuối cùng, cô đã bỏ lại biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, những giận hờn oán trách của thời ấu thơ. Bây giờ tương lai đang chờ đón, một tương lai nó cũng mù mịt, xa lạ. Không biết cái gì sẽ đến, chắc chắn nó cũng không suông sẻ, bởi lẽ mọi thứ đều lạ lẫm. Trăm ngàn cái khó đó, cô phải tự mình vượt qua, không ai giúp được.

Gia đình cô định cư tại Miền Đông Bắc Hoa Kỳ, thành phố nầy nằm trên đường biên giới với Canada. Đây là vùng khí hậu có phần khắc nghiệt đối với người Việt. Vì không liên lạc được người thân cận đang sinh sống ở Mỹ, nên gia đình cô được vợ chồng ông bà già người Mỹ làm sponsor. Đó là khuôn mặt đầu tiên cô gặp trên đất nước nầy. Họ rất tốt, lo lắng cho gia đình cô mọi thứ để hội nhập. Ngày cô được nhập học vào trường Community college, cô không tưởng tượng được rằng mình có ngày hôm nay. Sẽ cắp sách đến trường như mọi người, sẽ được đối xử với nhau bình đẳng như mọi người. Một ước mơ không thể nào thực hiện được, sau khi học xong trung học phổ thông (thời điểm 1990), khi còn ở Việt Nam, nhà nghèo không có khả năng tiếp tục đến trường. Cô phải nghỉ học tìm việc làm để phụ giúp gia đình, mặc dù cô là một học sinh xuất sắc. Còn ở đây, điều kiện đến trường dễ dàng hơn. Cô biết với vốn liếng sinh ngữ của mình chẳng có, nên cô phải cố gắng nhiều hơn mới theo kịp.

*******

Mười năm sau cô ra trường, trước khi đi nhận nhiệm sở. Cô về Việt Nam một chuyến thăm bà nội. Anh em cô và ba, hằng tháng gửi tiền về nuôi bà nội. Trước đây qua Mỹ chừng được hai năm, ba gửi tiền về xây lại căn nhà cho bà, những năm sau bà yếu nên phải thuê người chăm sóc cho bà. Ngồi trên máy bay trở về, cô không còn mang tâm trạng như ngày xưa. Trong lòng cô, không mang những lo lắng, sợ sệt. Những hờn tủi, thua thiệt. Mà trái lại cô tự tin hơn, bản lĩnh hơn. Một đất nước mới nầy đã dạy cho cô phải đứng thẳng người, không chịu khòm lưng bất cứ áp lực nào. Mười năm đủ để cho cô rà sát lại những thăng trầm của cuộc sống, phải vươn lên bằng khả năng và đôi tay của mình. Mười năm ấy đủ để cho cô xóa bỏ những tị hiềm thua thiệt, những oán hờn mà đời sống đã dành cho cô. Cũng ngồi bên cửa sổ máy bay nhìn xuống, cô cảm thấy thanh thản hơn, nhìn mây bay bên dưới cô cảm tưởng có một chút reo vui trong lòng.

Cô lấy trong xách tay tờ giấy ghi địa chỉ của mẹ ở Nha Trang, mà người bạn của ba đưa cách đây mười năm. Cô đọc đi đọc lại số nhà và tên đường. Mười năm không biết có gì thay đổi? Nhưng thế nào cô cũng phải tìm gặp mẹ, người đã sinh ra cô dù người đó đã từ chối thiên chức làm mẹ của mình, nhưng hề gì chuyện nầy. Miễn rằng cô còn giữ được một chút nhân ái với mẹ. Còn mọi chuyện khác, mình không cần phải đòi hỏi thêm về người khác. Cô sắp sửa bước xuống cái phi trường, mà cách đây mười năm cô đã ra đi. Cô nhớ lúc đó ngồi trong lòng phi cơ mà còn sợ bị lôi xuống, trong lòng hồi hộp, đến khi phi cơ lăn bánh mới tin rằng mình đã thực sự ra đi. Mới đó mà mà đã mười năm, đất nước bây giờ có gì đổi khác?

Sau khi ở với bà nội một tuần lễ, cô thuê một chiếc xe hơi nhỏ đi Nha Trang. Cô tìm đúng địa chỉ trong giấy đã ghi, nhưng không phải là căn nhà để ở, mà một cửa hàng bán quần áo ngoại sang trọng. Căn nhà ba tầng mới xây. Cô bước vào làm như một người khách đi mua áo quần, cô nhìn quanh cửa hàng như tìm một cái áo hay một cái quần cho vừa ý.

Cô bán hàng chạy ra hỏi cô:
“Chị có bà con gì với bà chủ không? Mà trông chị giống quá”.

Cô chụp ngay cơ hội, hỏi liền:
“Có phải bà chủ tên Hồng, người Huế phải không?”.

Cô bán hàng trả lời:
“Đúng vậy”.

Cô bình tĩnh, nói với cô bán hàng:
“Em làm ơn gọi giùm bà chủ. Bảo rằng có người cháu ở Huế vào thăm”.

Cô đứng chờ, chừng năm phút. Chị bước ra, trông thấy cô. Chị hoảng hốt, kêu lên: “Con…Hạnh”. Từ một đứa bé ba tuổi, hai mươi lăm năm sau Chị mới gặp lại. Chị vẫn nhìn ra con mình. Mới thoáng nhìn, chị biết nó là con mình. Tiếng chị gọi phát ra từ tâm thức, một phản ứng tự nhiên. Sau khi gọi, tự nhiên chị nghe tiếng của mình lạc lỏng. Hai mươi lăm năm con chị nó thiếu đi tiếng gọi thương yêu như vậy.

Cô mĩm cười cúi đầu chào chị và lễ phép nói:
“Thưa dì, cháu không phải là Hạnh. Cháu là bạn của Hạnh. Hạnh nhờ cháu về thăm dì”.

Chị đắng họng, không mở miệng được. Hình như con của chị muốn mở ra cho chị một lối thoát. Muốn chị khỏi phải khó xử trước một hoàn cảnh ngượng ngập. Chị nghe như ai đó tát vào mặt mình. Mình đã từ chối chức năng làm mẹ với nó trước đây, thì bây giờ nó từ chối lại cũng không có gì quá lắm. Con của mình trước mặt, mà mình không gọi con được. Không có cái gì đau bằng.

“Thưa dì, Hạnh nhờ cháu về thưa với dì một chuyện. Nhưng ở đây bất tiện quá, mời dì đi với cháu ra quán nước. Xe của cháu thuê, đậu bên ngoài”.

Cô đi ra phía sau xe mở cửa cho chị bước lên, còn cô lên ngồi phía trước với tài xế. Cô nói với tài xế tìm giùm một quán cà phê vắng người. Bây giờ chị mới bình tĩnh, ngồi phía sau quan sát con. Hạnh có khuôn mặt giống chị như đúc, dáng dấp cao hơn chị. Nhìn chung Hạnh có một vẻ đẹp tự nhiên, hiền lành, có đượm một chút nghiêm nghị. Một đứa con gái nết na, thùy mị như vậy mà mình đã đành đoạn từ bỏ mấy chục năm nay. Chị thẹn mặt với con, thẹn với lòng. Còn tâm trạng của Hạnh nghĩ về Mẹ, cô thấy Mẹ đẹp, ăn nói nhỏ nhẹ nghĩa là chung chung không có gì đáng chê trách. Cô tự hỏi, một con người như thế mà sao tâm địa tồi tệ như vậy. Đến quán cà phê, cô và mẹ tìm một cái bàn ở một góc phòng, gọi thức uống cho mẹ rồi cô thong thả nói:

“Thưa dì, Hạnh có ba câu hỏi mà mấy chục năm nay không được gặp dì để hỏi. Câu hỏi cũng không có gì làm khó dì nhưng Hạnh muốn chính dì trả lời. Cháu là người truyền đạt các câu trả lời của dì cho anh Phẩm và Hạnh, hai người con của dì”.

“Phẩm-Hạnh”, chị nghe tên của hai con, chị lặng người. Cái tên mà trước khi sinh anh chị phải tìm tòi suốt mấy tháng trời, để đặt cho con. Hai cái tên nói đến nhân cách, giá trị của người đàn bà. Người nào không giữ được phẩm hạnh sẽ bị người đời khinh khi, nguyền rủa. Sao như có cái gì nghịch lý với chị, chua chát và đắng cay. Chính chị là người đặt ra nó, và cũng chính chị vi phạm trầm trọng. Ngồi đối diện với con gái, trong trạng thái qua đi những bức xúc, chị muốn đọc trên mặt của con có chút gì oán hận, trách móc mẹ không? Trên khuôn mặt của Hạnh tươi tắn, điềm đạm không đượm một vẻ gì suy tư khi gặp lại mẹ:

“Thưa dì, câu thứ nhất Hạnh muốn hỏi dì về bà nội. Bà nội trước đây sống với dì ra sao? Có tốt với dì không? Dì đã biết, bà nội mù lòa, sống trong nghèo khổ, mà dì lại giao cho bà nuôi cháu còn thơ dại. Làm sao bà kham nổi”.

Chị nhớ lại người mẹ chồng, một người đàn bà tuyệt vời mà chị đã gặp và đã sống với bà. Chăm sóc dâu con, lo cho con cái từng miếng ăn, thức uống. Không nệ hà bất cứ cái gì cho con cái. Trong những ngày chị sinh nở, bà giúp cho chị đủ mọi thứ, đến khi chị cứng cáp bà mới trở về quê. Khi nào chị gặp khó khăn trong cuộc sống là bà có mặt để giúp chị. Trước đây đời sống của bà thong thả, có ruộng vườn trên quê. Sau năm 75, bà thấy các con chật vật khổ sở. Bà bán hết chia cho các con, trong đó có vợ chồng chị. Bà làm một cái chòi nho nhỏ bên đường, bán bánh kẹo cho con nít, độ nhật qua ngày.

Chị trả lời với con về người mẹ chồng:
“Đây là một người, trên mọi người. Một bà mẹ, trên những bà mẹ. Bà đối xử với tôi như bát nước đầy, không chê trách vào đâu được. Tình thương của bà dành cho tôi đúng như xôi nếp một, như đường mía lau. Sau bao nhiêu đêm suy nghĩ, tôi thấy rằng chỉ có bà mới nuôi được mấy đứa con của tôi. Mặc dù tôi biết bà mù lòa. Tư cách sống của bà cũng như sự giúp đỡ của bà với mọi người, những hàng xóm chung quanh không thể nào để bà và các con của tôi đói được. Chỉ có bà tôi mới yên tâm giao con”.

Hạnh nhắm mắt lại để nghe mẹ nói về bà nội. Đúng, những gì mẹ nói tốt về bà nội, anh em cô đã biết, không ngoa chút nào. Mười mấy năm sống với bà trong khổ cực, bà đã để dành miếng ăn ngon cho cháu. Còn bà thì ăn qua loa, không cần thiết. Ba bà cháu tối ngủ chỉ có một cái mền, bà dành để đắp cho anh em cô. Còn bà thì phủ lên mình chiếc chiếu manh rách. Trời mùa đông gió bấc lạnh lẽo, bà mặc trên người chiếc áo len mỏng phong phanh, phải tìm mua cho anh em cô chiếc áo dạ dày, cho đủ ấm.

“Thưa dì, câu thứ hai Hạnh muốn hỏi dì về ba. Trước đây ba sống với dì có được hạnh phúc không? Ba đối xử với dì có tệ bạc lắm không?”.

Chị lặng người khi có ai đó nhắc đến anh. Chị nhớ lại mối tình của chị với anh thật tuyệt vời. Hai người quen với nhau gần ba năm mới làm đám cưới. Khi gia đình chạy loạn, nghe tiếng súng, anh vội vàng gở nón sắt trên đầu của mình đội lên cho chị. Anh bảo rằng lỡ bị lạc đạn, anh có chết cũng không sao. Còn em phải sống vì các con cần em hơn. Nghĩ lại chuyện nầy chị bật khóc. Một người chồng thương vợ con như vậy, quên cả mạng sống của mình để lo cho vợ con. Thế mà mình lại nhẫn tâm phản bội. Chị trả lời với con trong thổn thức:

“Đó là một người đàn ông bao dung rộng lượng, một người chồng mẫn cán, tế nhị. Dù có đi khắp thế gian nầy, tôi cũng không thể tìm một người nào như anh. Sống với nhau một thời gian, tôi mới thấy được thế nào là hạnh phúc. Anh đã cho tôi một bài học về nhân nghĩa, về thủy chung. Chân tôi đã lỡ bước qua một lằn ranh, không thể nào kéo lại được. Tôi xấu hổ phải trốn tránh chồng con. Tôi không thể nhìn lại măt họ được”.

“Thưa dì, câu cuối cùng. Tại sao dì từ bỏ hai đứa con của dì?”.

Vẫn chìm trong tiếng khóc u uất, chị trả lời:
“Chính tôi, tôi cũng không hiểu tại sao tôi phải làm như vậy. Thì xin các người đừng hỏi tôi tại sao? Một con vật mà còn biết bảo vệ cho con, không lìa bỏ con. Thế mà tôi đã làm một chuyện trời không dung, đất không tha nầy. Thua cả loài cầm thú. Tôi không dám xin các người tha thứ, vì có độ lượng như Trời, Phật cũng không thể nào tha cho tôi trọng tội nầy được. Chỉ xin các người một điều hãy sống trong an lạc tự tại, giữ lấy thân trong bình yên”.

“Cám ơn dì đã trả lời những câu chân thật tự đáy lòng”

Hai người đứng dậy trả tiền nước rồi ra xe. Trên đường về nhà, chị ngồi phía sau xe vẫn khóc nức nở, còn Hạnh thì đăm chiêu. Từ khi gặp được mẹ, cô hứa với lòng mình là phải giữ một khoảng cách, không được suy sụp. Dù ở trong hoàn cảnh nào cũng không được khóc, cô đã mất quá nhiều nước mắt trong những đêm dài hắt hiu. Khi con người đã gặp một sự đau khổ tột cùng thì tự nhiên trong cơ thể sẽ được bảo hòa. Cô đã giữ vẽ thờ ơ trước mặt mẹ để thể hiện sự cứng cỏi của nội tâm. Khi xe ngừng, cô ra phía sau để mở cửa cho mẹ. Cô nhìn thấy bà bước ra dáng dấp chậm chạp, thể hiện một tuổi già đã đến. Cô đưa tay để bà vịn đứng lên, tự nhiên cô ôm lấy bà, cô thốt lên một tiếng kêu mà cô không thể nào kềm hãm được. “Mẹ”. Rồi cô khóc nức nở trên vai mẹ. Hai mươi mấy năm rồi cô mới được khóc thoải mái như vậy, trước đây dòng nước mắt của cô chỉ chảy trong âm thầm.

Ngồi trên máy bay trở lại Mỹ, trong lòng cô không còn nặng trĩu những vấn đề mà đã đeo trên mình suốt bao nhiêu năm tháng. Tất cả đều được giũ sạch. Nhìn xuống phía dưới cũng những cảnh quang như cách đây mười năm cô đã ra đi. Lúc đó sao nó buồn não nuột, còn bây giờ cô cảm thấy reo vui. Người mẹ mà cô mong gặp, để cô được trút những oán hận. Thế mà khi gặp cô lại cảm thấy thương hại cho bà. Với những lầm lỡ của thời son trẻ, bà luôn luôn mang những ấn tượng tội lỗi, đó đã là một hình phạt nặng nề. Khi gặp cô, bà cũng vơi bớt đi một phần tủi nhục. Thế nhưng cô biết cái hối hận nó dày vò bà cho đến khi bà nhắm mắt lìa đời. Tội nghiệp, một đời người chẳng bao nhiêu, phải biết chọn lựa đúng con đường để đi. Trên đời sống biết bao nhiêu con đường rộng thênh thang, thế mà có người chỉ chọn những ngõ cụt đầy tăm tối. Khi thức tĩnh thì đã muộn, không quay đầu lại kịp. Chị cũng ở trong tường hợp nầy. Càng lớn tuổi chị lại càng bị nỗi đau đó dày vò.

Dallas - 15 Tháng 10 Năm 2007