Những
kết tụ của nền văn hóa Việt hay Dẫn dụ về chữ
Nhân, Nghĩa, Tình trong ngày Xuân
(Nguyễn
Hữu Hoạt)
Trong
khi mọi người nao nức đón Xuân, trong dòng sinh
động của ngày đầu năm, riêng thi hào Nguyễn Du,
khác với những tưng bừng nô nức ấy, ông đã ngồi
độc ẩm dưới bóng chiều tà ngẩn đầu nhìn về ngọn
núi Hồng Lĩnh thốt lên tấm lòng của mình thương
nhớ nhà hậu Lê:
Ngã
hữu thốn tâm vô dữ ngữ
Hồng Sơn, sơn hạ Quế giang thâm
(Ta có tấm lòng không biết cùng ai bày tỏ
Dưới chân núi Hồng (Lĩnh) sông Quế thẳm sâu)
Còn cái thống thiết
nào hơn của một văn hào mang họ Việt nặng lòng
cùng cố Chúa. Tấm lòng thủy chung và nhân hậu
của thi hào Nguyễn Du thể hiện qua giá trị tinh
thần của một nền văn hóa Đông Sơn đánh lên bởi
chiếc trống đồng Ngọc Lũ. Khởi đi từ chữ “thủy
chung” Nguyễn Du đã thể hiện tính Việt của người
Việt. Người Việt cho dù bị ảnh hưởng bởi hơi hám
ở buổi giao thừa của sự thay đổi thể chế hay âm
hưởng bởi đạo giáo, hoặc tư tưởng nào vẫn luôn
luôn coi trọng nguồn gốc và nghĩa tình. Nghĩa
tình chẳng những đối với vua tôi mà còn cả tình
nước non, non nước. Cho nên trải qua những bể
dâu, dâu bể hay trải qua những thăng trầm chinh
chiến, cho dù trong cơn dầu sôi lửa bỏng hay ổn
định đời sống vật chất những con người Việt sống
trong bất cứ không gian nào, tất cả đều hướng
về tổ quốc Việt với lòng trân trọng nhớ thương.
Đi từ khởi đầu, sở
dĩ dân tộc chúng ta có được tích tụ ấy là nhờ
bản sắc văn hóa Việt Nam, cấu tạo vào các giá
trị nhân bản do con người thành hình. Hơn nữa,
sự cấu tạo trên là do tiến trình lịch sử tạc ghi,
nhớ ơn và trân trọng. Từ họ Hồng Bàng cho đến
các thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần hay những cấu
trúc vật hình từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, tất
cả là những nhân tố của một nền sản xuất tổng
hợp. Điều ấy nó đã thoát ra và vượt lên những
giá trị vật thể để chuyển tải từ một giá trị tinh
thần trở thành một di sản văn hóa của dân tộc,
như trường hợp chùa Một Cột là một ví dụ điển
hình, qua truyền thuyết báo mộng của vua Lý Thái
Tông vào mùa Xuân năm Kỷ Sửu (1049). Mộng rằng:
nhà vua đã thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài
sen, dẫn nhà vua lên đài. Từ đó, tinh thần Vạn
Hạnh được lớn lên và yếu tố tâm linh của nhà vua
bừng sáng, nên ngài đã ra lệnh xây chùa Diên Hựu
có hình dáng giống hoa sen, tức chùa Một Cột ngày
nay. Hoa sen luôn luôn có một ý nghĩa đượm màu
Phật Giáo, hễ nơi nào có hoa sen là nơi đó có
bóng dáng Bồ Tátï. Hoa sen còn thể hiện sự trong
sạch và thanh cao, cho dù sống nơi trần gian danh
lợi nhưng hoa sen vẫn không bị đồng hóa bởi những
tanh hôi của xã hội.
Một ý nghĩa khác
của tinh thần Một Cột hay còn được gọi là “nhất
trụ” đươc kết hợp bởi tư tưởng Thiền, Mật trộn
lẫn Nho giáo, Lão giáo. Để rồi chùa Một Cột được
mọc lên giữa hồ nước như một khẳng định giá trị
tâm linh của triều đại nhà Lý tin tưởng vào đấng
thần linh Bồ Tát, và đây là điểm tựa đầu tiên
và cuối cùng trở thành một tha lực nguyện cầu
và quyền lực lấy lòng thương dân trị nước qua
lời khấn nguyện cho quốc thái dân an, vẹn toàn
lãnh thổ. Cũng giống người Mỹ tin tưởng vào Thượng
Đế và nhờ bàn tay của Thượng Đế để đất nước nầy
có được như ngày hôm nay, qua phạm trù “In God
We Trust”.
Vậy thì, chùa ”Một
Cột” là một yếu tố văn hóa điển hình còn là một
chứng tích của thời đại nhà Lý, nhưng qua thời
gian những “yếu tố văn hóa” ấy bị biến đổi. Song
song với biến đổi, một chức năng khác lại được
khởi sinh và hồi sinh. Như trường hợp những người
Việt ly hương, cứ mỗi nơi nào họ định cư đều có
sự hoành tráng của các mô hình văn hóa hay kỷ
niệm những ngày lễ mang tính về nguồn. Về nguồn
là những gì thiêng liêng mà không một người Việt
Nam nào lại không nghĩ đến, mặc dầu thời gian
được đồng nghĩa với những biến dạng của nó từ
thuở ban đầu. Về nguồn còn là một khẳng định có
tính cách duy thức thể hiện qua động từ “về quê
ăn Tết hay về quê thăm nhà” của 90% người Việt
định cư tại hải ngoại hằng năm đã trở về quê quán.
Ngoài ra, sự trở về của những người Việt ly hương
là một bằng chứng cụ thể, thực tế và khẳng định
rằng: các hệ số chính trị chỉ là những hệ qủa
của một giai đoạn chính trị và các tương quan
ấy chỉ có giá trị ở yếu tố thời gian (nên không
tồn tại). Cho nên, chỉ có tổ quốc, dân tộc, đồng
bào và những ràng buộc về văn hóa cũng như sự
liên hệ gia đình mới vĩnh cữu và sẵn sàng san
bằng mọi khác biệt nếu có. Còn tất cả những chính
kiến, lý thuyết hay quan điểm rồi cũng sẽ bị đào
thải bởi thời gian. Chính vì thế nên có câu hát:
Loài
chim đó còn thương cây nhớ cội.
Sao kẻ ly hương không nhớ cội nguồn?
Bằng những tuyệt
vời ở nền văn hóa Việt Nam, ràng buộc bởi yếu
tố làng xã, dân tộc chúng ta còn luôn luôn tôn
trọng chữ hiếu, qua hình ảnh thờ cha kính mẹ hay
tưởng nhớ đến tổ tiên. Đây cũng còn là một điểm
son ở mỗi người Việt chúng ta. Chính vì những
điểm son và nghĩa tình ấy cho nên hằng năm rất
nhiều Việt kiều đã lặn lội về tận miền quê để
trùng tu lại phần mộ của ông bà, cha mẹ. Thậm
chí có nhiều cụ già nhịn ăn tiêu bằng tiền trợ
cấp của chính phủ, chiu chít từng đồng để gửi
tiền về xây chùa chiền hay nhà thờ tại Việt Nam.
Đây chính là chữ hiếu trong chữ đạo. Đao nào cũng
thế, hễ đến Việt Nam cho dù đứng trên căn bản
nào, rồi thời gian cũng sẽ được Việt hóa. Việt
hóa để phù hợp với lòng người và ứng dụng với
lệ làng. Lệ làng là đơn vị căn bản trong tổ chức
xã hội được cột chặt bởi chức năng văn hóa tự
tồn và tự tại, còn là căn cước chính thống khẳng
định con người không thể tách rời các định chế
làng xã. Như trường hợp đạo Công giáo cho dù không
cúng lạy, thắp hương đèn nhưng vẫn giỗ kỵ tổ tiên
qua hình thức đọc kinh cầu nguyện. Đi xa hơn,
văn hóa Việt luôn luôn đặt nặng trung hiếu làm
đầu, chính vì thế hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu trong
Lục Vân Tiên đã nhấn mạnh rằng:
Trai
thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu răn mình
Hoặc
Thà
đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ |
|
Ngoài yếu tố hiếu
thảo với cha mẹ qua hình thức phụng dưỡngï khi
tuổi già và khi chết con cái thờ cúng. Ở đây cụ
đồ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng ngòi bút của mình
nói lên cái cốt lõi văn hóa của dân tộc theo tư
tưởng “trung quân” của người trai trong tinh thần
Nho giáo, được tiếp thu và xiển dương. Ngoài yếu
tố trung- hiếu, sở dĩ dân tộc chúng ta đánh bại
được ngoại thù là do lòng dân. Lòng dân sinh sản
ra lãnh tụ và người lãnh tụ sau thời gian nằm
gai nếm mật trở thành lãnh đạo. Người lãnh đạo
được trưởng thành từ nhân dân, chia xẻ những chua,
bùi, ngọt, đắng nên được nhân dân kính trọng.
Ngược lại, lãnh đạo không do dân mà do ngoại bang
đưa về dựng nên, thì người lãnh đạo ấy không thể
tạo nên huyền thoại chính nghĩa và không sớm thì
muộn cũng phải triệt tiêu.
Đối với con người
Việt Nam, nền văn hóa tổng hợp của chúng ta luôn
luôn tôn trọng nhân, nghĩa, tình. Đây chính là
sự khởi đầu và tận cùng của con người Việt Nam.
Cho nên tổ phụ Nguyễn Trãi đã bắt đầu Bình Ngô
Đại Cáo bằng câu vô cùng quan trọng và ý nghĩa:
Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Riêng thi hào Nguyễn
Du đã dùng hình ảnh của Kiều để nói lên cái nhân
nghĩa của con người qua câu:
Tấm
thành đã thấu đến trời,
bán mình là hiếu, cứu người là nhân
Còn đối cụ Nguyễn
Đình Chiểu thì cho rằng:
Ngư
rằng tôi chẳng sờn lòng
Xin tròn nhân nghĩa còn hơn bạc vàng.
Theo tinh thần Nho
giáo du mục từ Trung Hoa, người Việt Nam chúng
ta đã biết cách tập hợp lại rồi “modify” để hợp
với cá tính của người Việt. Nếu Nho giáo bên Tàu
trọng Nam khinh nữ thì ngược lại người Việt mình
hoàn toàn phủ nhận sự bất công bình ấy, qua hình
ảnh:
Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Đạo còn có nghĩa
là đạo làm người, đạo người là đạo không có thánh
kinh, không có ở chùa cũng chẳng ở nhà thờ, cũng
không từ Hòa Thượng, Mục Sư hay Linh Mục giảng
dạy. Đạo người đươc lớn lên ở nhân gian, truyền
miệng, không có màu sắc hay mùi vị. Có bắt đầu
nhưng cũng chẳng có tận cùng. Đạo người được trưởng
thành từ miệng thế gian truyền lại, không thành
văn, bất thành cú, nhưng thành thông lệ và nó
có một sức hấp dẫn thu hút trường kỳ, bất biến.
Đạo người trong nhân gian đã dạy con người trung
hiếu làm đầu. Và chắc chắn đạo người không dạy
cho những con người lãnh đạo làm tay sai cho ngoại
bang để vong thân phì da. Nghĩa tình của người
Việt lớn lên ở làng xã, bưng biền Việt Nam chạy
dài từ ải Nam Quan đến tận mũi Cà Mau, chứ không
lớn lên ở Paris, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn hay Bắc
Kinh. Những suy tư ấy là một nguyên tắc không
thể vượt thoát ra ngoài nền tản văn hóa Việt Nam
đã được chia đều thành ba nguyên sau đây:
Mình
về em chẳng cho về
Em nắm vạt áo em đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba
Chữ Trung thì để phần cha,
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ Tình
Như thế đó, nó giản
dị nhưng tuyệt vời làm sao! Nó dân giả nhưng không
là dân giả. Nó bình dân nhưng lại được tiếp thu
ở tầng lớp sĩ phu và công nhận ở giới công thương.
Vì nó lớn lên từ hình ảnh cây đa bến đò hay từ
ruộng đồng Việt Nam hoặc hình ảnh cây phướn trước
nhà trong ngày đầu Xuân.
Quả thật, nó giản
dị vô cùng, nhưng nó luôn luôn được viết hoa và
nhấn mạnh, vì nó thể hiện hình ảnh của Nguyễn
Du, Nguyễn đình Chiểu, Nguyễn Trải, Lê Lợi, Quang
Trung và Nguyễn Việt Nam trong lòng dân tộc.
Dưới ngọn đèn lung
linh trên bàn thờ gia tiên trong đêm giao thừa,
tôi cúi đầu cầu nguyện Thượng Đế cho dân tộc chúng
ta quên đi những tan tác quá khứ, vì quá khứ không
thể đổi thay. Tất cả hãy cùng nhau nắm tay xây
dựng một Việt Nam hùng mạnh và nghĩa tình.
Nguyễn
Hữu Hoạt
Báo Dân Quyền/OK.