Lúc nào rỗi, cũng có thể đọc văn. Nhưng với thơ, tôi chỉ đọc khi lòng yên tịnh, và chung quanh đều vắng lặng. Mỗi lần, tôi chỉ đọc vài bài. Gặp bài hay, tôi dừng lại thật lâu. Không phải để suy nghĩ. Thơ mà suy nghĩ cái gì? Dừng lại để cái rung cảm của bài thơ đủ sức thấm sâu vào tâm não, để lòng rung động theo cái rung động của tác giả khi sáng tác bài thơ. Cái đó, người ta gọi là truyền cảm. Vì thế, bất cứ ai làm thơ không bằng cảm xúc của lòng mình, chắc bài thơ ấy không truyền được điều gì cho người đọc.

Có người bạn gởi tặng tôi tập thơ Hạt Bụi Nào Bay Qua của Thái Tú Hạp. Chưa đọc vội, vì lòng chưa yên. Lòng không yên, mà đọc thơ, đến châu ngọc cũng rơi rụng, thì Hạt Bụi Nào Bay Qua làm sao bám lại? Cầm tập thơ, tôi nhìn bề ngoài trước. Bởi, thơ vốn thanh bai, được gạn lọc từ cốt tủy của văn, nếu bị khoác bên ngoài bằng chiếc áo lòe loẹt, hoặc cẩu thả, chứng tỏ tác giả thiếu trân trọng với thơ của mình. Thơ của mình, mà mình không trân trọng, thì nội dung đáng ngờ lắm. Hạt Bụi Nào Bay Qua có cái dáng vẻ bề ngoài trang nhã. Màu sắc đơn giản, nhẹ nhàng. Nhìn thấy dễ chịu. Dễ gây ấn tượng tốt đẹp trong lòng người. Nhưng hãy xếp nó vào tủ sách, để khi nào thư thả, lôi ra thưởng thức từ từ...Hôm nay, lòng đã tạm lắng yên, tôi đọc Thái Tú Hạp. Hạt Bụi Nào Bay Qua dày hơn 250 trang, gói ghém rất nhiều bài. Nhưng lần này, tôi chỉ đọc bốn bài đầu tiên. Phần còn lại, để dành lần khác. Tâm hồn nào chuyên chở nổi một lúc gần 100 bài thơ, chứa đựng biết bao nhiêu là tình ý của tác giả? Hơn nữa, một lúc đọc nhiều bài, sẽ nhàm, không tài nào thưởng thức trọn vẹn được cái hay của thơ.

Xin Người Hãy Quên Ta” là bài thơ đầu của tập Hạt Bụi Nào Bay Qua.

không còn gì trên những hàng ghế trống
khi người đạo diễn bỏ đi
vở kịch đời dang dở
em còn lạ lẫm gì
dấu vết hai bờ sông cát lỡ
sau mùa nước lũ cuốn trôi đi
ta cũng chỉ cánh chim trời thoáng hiện
bay qua một lần rồi biền biệt tăm hơi


Mới vào, thế giới thi ca của Thái Tú Hạp, tác giả đã đưa người đọc vào cái trống không của chốn hí trường, sau khi người đạo diễn bỏ đi. Vắng ngắt tiếng người. Những hàng ghế trống, vở kịch dang dở, bờ sông cát lỡ. Tất cả chỉ là ẩn dụ. Dùng ẩn dụ để nói lên những mất mát của đời sống bất toàn. Con người không bao giờ ưng ý với hiện tại của chính mình. Luôn luôn cảm thấy mọi sự việc đều không trọn vẹn. Vở kịch đời dang dở. Dự tính thực hiện chưa xong, thời gian đã qua đi. Và, đời người cũng là bức tranh nửa chừng, lem nhem hoen ố. So với thời gian hằng hằng kiếp kiếp, thì giai đoạn xuất hiện và mất đi của con người, cũng chỉ là một thoáng qua, rồi mất hút:

ta cũng chỉ cánh chim trời thoáng hiện
bay qua một lần rồi biền biệt tăm hơi

Mới đọc lướt qua, bài thơ dường như không nói gì đến những ý tứ sâu xa. Nhưng không phải thế. Tư tưởng của một nền triết học Phương Đông đã ảnh hưởng bàng bạc đâu đây. Thấp thoáng như sương sớm. Như bóng chiều. Qua lăng kính của nhà Phật, tác giả nhìn mọi sự hiện hữu trên thế gian đều là ảo ảnh, ảo giác phù sinh. Ta đi không ai biết. Ta về chẳng ai hay. Âm thầm trong vô lượng của không gian và thời gian:

đời không biết đến ta
chẳng biết ta đi
không ai còn nhớ trong biển hồ quên lãng
chỉ có hạt bụi chỗ ta ngồi


Ôi, nhỏ nhoi thay là hạt bụi. Nhà thơ Thái Tú Hạp nhắc đến hạt bụi như nhắc về nỗi bi thảm của thân phận kiếp người. Kể cả tựa đề toàn tập, cũng là Hạt Bụi Nào Bay Qua.

Dù chỉ thoáng qua trong cõi đời hắt hiu của những buổi chiều thư viện xanh xao, những trang sử hoen úa máu đào, những quê hương nghiệt ngã đau thương. Nhưng không phải vì thế mà đời không ý nghĩa. Nếu con người được sinh ra để học bài học làm người, thì những ngày mật đắng cũng là bài học đầy ý nghĩa.

Đôi lần, nhà thơ dặn hãy quên ta:

em hãy quên ta
như quên buổi sáng



hãy quên ta
trên sân khấu đời vô vị

Dễ thế sao? Đời là cuộc trầm luân, nhưng muốn bỏ cái hiện tại, rời cái đang là..., dứt khoát với những dây mơ rễ má với đời, không dễ! Nói thế, nhưng nhà thơ cũng biết rằng, đấy cũng là một cách nói ước lệ của ngôn ngữ. Cho nên, trong đoạn cuối, Thái Tú Hạp còn ngoái cổ lại, với lời hẹn ước trong niềm hy vọng:

ta hẹn về nơi cắt rốn
mai sau phủ dụ một lời chim
tha cọng cỏ khô về nơi mái ấm
nghe rừng xuân chuyển nắng mới qua tim


Thân đang trôi giạt ngoài ngàn dặm, lời hẹn của ông nghe sao mà xa xôi quá đỗi. Ông hẹn thì cứ hẹn. Ông chưa thể bỏ đi được đâu. Tôi phải níu áo ông lại để nói với ông một điều làm tôi khó chịu. Nỗi khó chịu này, như đang ăn bữa cơm ngon, bất ngờ nhai phải hạt sạn. Hạt sạn ấy là chữ “lẫm” trong bài “Xin Người Hãy Quên Ta”:

em còn lạ lẫm gì
dấu vết hai bờ sông cát lỡ

Bài thơ đang đọc êm xuôi, gặp chữ “lẫm” này, tôi vấp lại như chiếc xe đang chạy ngon trớn, bỗng sụp cái ổ gà. Tôi thử bỏ chữ “lẫm”, và đọc lại nguyên mạch thơ:

không còn gì trên những hàng ghế trống
khi người đạo diễn bỏ đi
vở kịch đời dang dở
em còn lạ... gì
dấu vết hai bờ sông cát lỡ
sau mùa nước lũ cuốn trôi đi
ta cũng chỉ cánh chim trời thoáng hiện
bay qua một lần rồi biền biệt tăm hơi


Nghe êm. Không còn bị hạt sạn làm ê răng. Không còn sụp phải cái ổ gà khi xe đang chạy. Tôi thấy được cánh chim bay ngang và khuất dần ở cuối chân trời. Nếu đọc luôn chữ “lẫm”, tôi có cảm tưởng chính chữ này, như viên đạn bất ngờ bắn vào con chim vừa thoáng hiện, làm bị thương đôi cánh lặc lìa. Mất đi một hình ảnh đẹp. Dĩ nhiên, đó là cảm giác của tôi khi đọc thơ, không phải phê bình. Có thể, ông nhà thơ Thái Tú Hạp, hoặc người đọc khác không cùng cảm giác như tôi.

Hai bài thơ kế tiếp “Người Tù Binh Dũng Liệt” và “Tiếng Chim Trong Ghềnh Núi”, đều nói lên nỗi thống khổ của một thời bi đát, sau biến cố mùa xuân năm Ất Dậu. Tôi ghép hai bài làm một, để thấy liên tục được cái không khí trầm uất của những ngày tù rạc giữa chốn núi rừng. Tác giả diễn tả bằng thể thơ ngũ ngôn. Hơi thơ ngũ ngôn có tính cô đọng, ngắn gọn dứt khoát, có sức thẩm thấu mãnh liệt vào lòng người đọc.

rừng sương trắng bủa vây
nuốt mặt trời buổi sáng
toán tù binh đốn cây
lạnh lùng như chiếc bóng


Đọc những câu này, tôi thấy lại tôi một thời khổ nạn. Người tù binh rách rưới giữa cái lạnh mù sương buổi sáng. Tai ương đè nặng xuống đôi vai còm cõi. Kêu trời, trời ở quá cao, kêu không thấu. Và giữa đời, cũng chẳng biết kêu ai. Cho nên:

góc núi sầu ai hay
giữa trùng vây đày ải


Rồi những mùa sau. Những mùa xuân sau nữa. Trải qua bao nhật nguyệt nắng mưa. Mặt đất thấm đẫm mồ hôi của người tù. Chế độ khổ sai đã vắt cạn sinh lực của kẻ thất thế. Bao nhiêu thân xác âm thầm từ giã thế gian, đi về lòng đất. Đá tảng muôn đời vẫn nín thinh, nhưng:

rừng xanh tàn nụ biếc
cây lá sững sờ đau


Thời thế đổi thay. Bể dâu đất bãi sông bồi. Con chim gãy cánh, giờ nằm trong lòng đất. Cỏ mộ hoe vàng hiu hắt, để:

người còn lại mai sau
ngẩng đầu lên với núi
núi cao ngậm ngùi đau
trăm năm hoài nhớ tiếc


Khi thế nước đã đến hồi suy mạt, con người cũng bị xô vào nỗi lầm than. Một người bị tai vạ, sự liên hệ níu theo nhiều người khác. Bà mẹ già đi tìm lại đứa con, như đi tìm lại núm ruột của mình. Đi tìm lại đứa con, bây giờ, không khác gì tìm lại dấu chim bay. Nhà thơ vẽ lên cái cảnh:

trên dốc đèo đá dựng
bà mẹ già thăm nuôi
qua trại tù khép vắng
đứa con mẹ về đâu?


Mẹ già không phải là hình ảnh người đàn bà đau buồn duy nhất trong bài thơ. Còn một người nữ nữa, cũng não nề không kém:

trên cánh rừng thẳm sâu
người vợ hiền qua trại
nắng chiều động bờ lau
ngậm ngùi như chiếc lá


Thế đấy. Người vợ hiền đi tìm lại một phần đời chia xa cách trở của mình, nhưng chỉ thấy nắng chiều đọng bờ lau, ngậm ngùi như chiếc lá.

Trong cả hai bài thơ, tác giả trăn trở hoài về những mất mát đớn đau của những người tù bất hạnh, giữa núi rừng u uất. Thơ Thái Tú Hạp, có những đoạn xuất sắc, làm tôi xúc động đến không ngờ:

giòng suối vẫn quạnh hiu
đời vô thường bóng nắng
chiều qua bên trại tù
tóc rừng thu bạc trắng


Ôi! Tóc rừng thu bạc trắng. Tuyệt! Hơi thơ phảng phất nỗi sầu thiên cổ. Tôi tưởng tôi như người khách, một chiều nào đó, về ngang qua chốn cũ, đứng lặng nhìn sương xuống, trắng cả rừng thu. Làm sao nói hết nỗi sầu vạn đại đang tràn lên khóe mắt của người đời nay? Câu thơ làm khách xúc động rùng mình như nhuốm bệnh. Trong đoạn này, nhà thơ Thái Tú Hạp không nói gì đến con người, nhưng qua ý thơ, người đã hòa mình với thiên nhiên làm một. Ông chỉ mượn cảnh để nói lên nỗi buồn thê thiết trong lòng người. Như trong truyện Kiều:

cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

(Nguyễn Du)

Ước chi ông nhà thơ Thái Tú Hạp dừng lại ở tóc rừng thu bạc trắng, để khách còn giữ được nỗi bồi hồi sau khi chấm dứt bài thơ. Để khách còn:

ngỡ lòng mình là rừng
ngỡ hồn mình là cây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
khói huyền bay lên mây

(Hồ Dzếnh)

Với cách gieo vần liên hoàn của thơ lục bát, tự nó đã mang đầy nhạc tính, âm điệu nhẹ nhàng. Phần nhiều, những người làm thơ, bài đầu tiên thường là thơ lục bát. Nhưng nếu không khéo, dễ biến thành vè, dễ làm người đọc rơi vào tình trạng nhàm chán. Nói theo kiểu võ công, qua bài thơ lục bát, ta có thể thấy được “nội lực” của tác giả. Nhà thơ Thái Tú Hạp, làm thơ đã mấy mươi năm rồi, ông có thừa kinh nghiệm để vượt qua những cái tầm thường nói trên. Bài lục bát “Đi Xe Đạp Thồ Gặp Người Tình Cũ”, đã chứng tỏ điều đó. Không vì hạn định số chữ của mỗi câu, mà tứ thơ của ông bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp. Ông gieo vần một cách thoải mái tự nhiên, không hề gượng gạo:

mời em lên chiếc xe này
đường qua phố nhỏ thân gầy guộc thương


Đó là hai câu mở đầu của bài “Đi Xe Đạp Thồ Gặp Người Tình Cũ”.

Thời thế đổi thay một cách dị thường, con người cũng thay đổi theo mệnh nước. Chớp mắt đã thấy mình không còn là người của hôm qua. Người thầy của chữ nghĩa, bây giờ là hiện thân của người phu xe đạp thồ.

Ông Tú ngày xưa cũng đã từng nói lên cái ý của “Thiên thượng phù vân như bạch y. Tu du hốt biến vi thương cẩu” rằng:

sông kia rày đã nên đồng
chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
đêm nghe tiếng ếch bên tai
giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

(Tú Xương)

Sự đổi thay nhanh đến mức con người không kịp thích nghi với hoàn cảnh. Nghe tiếng ếch kêu mà tưởng tiếng ai văng vẳng gọi đò. Còn nhà thơ Thái Tú Hạp, trước sự đổi thay, chỉ ngậm ngùi trông về quá khứ:

ta giờ như cánh chim qua
thời xưa sương khói phai nhòa mắt đau


Cũng có lúc ông ngán ngẩm cho tình đời, và than thở cho phận mình, nghe thê thảm làm sao:

đời phai nhạt nghĩa bao dung
hàn sinh một kiếp đường cùng độ thân


Trong thơ lục bát, rất khó tạo nên những cái đột biến của âm điệu và cách dùng chữ. Như trên đã nói, Thái Tú Hạp làm thơ đã mấy mươi năm rồi, với một nội lực thâm hậu, ông có thừa bản lãnh để biến chiêu, tạo thành những đường gươm tuyệt kỷ:

phố đìu hiu cánh tay chia
cỏ hoa cũng nát hồn bia đá tình


Hai câu này, theo tôi, là hai câu xuất sắc nhất trong bài lục bát “Đi Xe Đạp Thồ Gặp Người Tình Cũ”. Đọc thơ lục bát, thường người ta chưa đọc hết câu, mà có thể đoán ra trước âm điệu hoặc chữ dùng phía sau, nhưng:

cỏ hoa cũng nát

không ai đoán được tiếp theo là:

hồn bia đá tình

Đó là nói về kỹ thuật, còn về ý thì:

đưa em vòng phố mưa hồng
đóa sầu nở giữa hư không ngậm ngùi


Khó mà nói cho rõ thế nào là tuyệt, thế nào là không tuyệt. Đọc thơ chứ không phải đọc bản cáo trạng, nên không thể hỏi, mưa gì là mưa hồng, đóa sầu sao lại nở giữa hư không? Nhưng phải thừa nhận rằng, ta đã bắt được cái ý của tác giả: còng lưng đạp xe chở người tình cũ, như chở nỗi buồn đang lớn dần trong lòng mình, tỏa ra giữa hư không.

Bài thơ chấm dứt bằng cách trở về với thực tại:

một vòng phố rộng cho nhau
trăm năm nhen chút lửa sầu hôm nay


Người ta nói, tư tưởng lớn thường gặp nhau. Người làm thơ đời nay, cách suy nghĩ cũng không khác người đời xưa, có khác chăng là trong cách dùng chữ. Hai câu kết của nhà thơ Thái Tú Hạp, làm tôi liên tưởng đến cụ Nguyễn Du:

sầu đong càng lắc càng đầy
ba thu dồn lại một ngày dài ghê

(Kiều)

Ngồi nhẩn nha đọc thơ. Viết lăng quăng vài cảm tưởng của mình, không khéo lại đi lạc đường. Viết về thơ của cổ nhân, nếu sai, cũng không ai sống dậy được mà rạch ròi cải chính. Ông nhà thơ Thái Tú Hạp còn đang sờ sờ ra đấy. Đem thơ ông ra mà tán hươu tán vượn kiểu này, thật là bất tiện. Khi làm thơ, ông có những ý tứ sâu xa và cảm xúc rạt rào của riêng ông. Tôi đọc thơ ông, không thể nào thấu trọn lòng tác giả. Và cảm xúc của ông, khi truyền đạt đến tôi, nó cũng bị thay màu đổi sắc theo tâm hồn khác biệt của tôi. Còn điều này nữa, tập thơ chứa đựng cả trăm bài, tôi chỉ đọc vài bài, đã vội nói lên cảm tưởng, không thể nào tránh khỏi những sai lầm. Nhưng ở đây, tôi phát biểu như một người đọc thơ. Còn phần nhận định toàn tập, xin dành cho các nhà phê bình văn học.