PHƯỢNG
TÍM Ở CALI NHỚ HOA SIM Ở QUÊ NHÀ
(Thái
Tú Hạp)
Khi
chúng tôi đến định cư ở thành phố Los Angeles
nhằm vào mùa hè, lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy
hàng cây phượng tím trên lối đi đến trường, học
những bài Anh văn đầu tiên với cô giáo người Ba
Lan. Những ngày tháng ngơ ngác nơi quê người,
những cánh hoa phượng tím càng gợi cho chúng tôi
cảm thấy cô đơn, da diết buồn hơn. Tôi nhớ đến
những ngày mùa hạ ở quê nhà, màu hoa phượng vỹ
rực rỡ đỏ thắm trong sân trường, những đôi mắt
bùi ngùi ngấn lệ chia tay, những cuốn lưu niệm
chuyền tay nhau viết những lời thắm thiết yêu
thương, những cánh hoa phượng vội vàng ép vào
cuốn vở học trò như bày tỏ “e ấp” tình yêu...
hay nỗi lòng rạo rực “xếp bút nghiên” về với miền
quê yêu dấu, như nhà thơ Xuân Tâm đã vẽ nên:
Sung
sướng quá, giờ cuối cùng đã hết
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.
Một nét mặt, trăm tiếng cười rộn rã
Lời trên môi chen chúc nối nghìn câu
Chờ đêm nay, sáng sớm bước lên tàu
Ăn chẳng được lòng nôn nao khó ngủ
Trong khoảnh khắc sách, bài là giấy cũ
Nhớ làm chi. Thầy mẹ đợi, em trông
Trên đường làng huyết phượng nở thành bông
Và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt
Kiểm soát kỹ, có khi còn thiếu sót
Rương chật rồi, khó nhốt cả niềm vui
Tay bắt tay, hồn không chút bùi ngùi
Các bạn hỡi, trời mai đầy ánh sáng.
(Nghỉ hè trong tập Lời Chim
Non) |
|
Lời
thơ trong sáng và hồn nhiên. Cái thuở hồn như
gương và ý nghĩ như thủy tinh thật là hạnh phúc.
Càng già con người càng sinh ra tồi tệ quá đỗi,
nói theo nhận xét của Phan Khôi. Soi bóng mình
trong mặt hồ tĩnh lặng, tóc bạc trắng mây trời
càng cảm thương cho thân phận lưu vong, không
biết bao giờ về thăm lại con đường phượng vỹ dẫn
lối đến ngôi trường thân yêu ở Hội An, Nội Thành
Huế, con đường ven biển Quy Nhơn. Tôi chạnh nhớ
nhà văn Solzhenitsyn, ông chỉ mới xa quê hương
chưa đầy hai mươi năm đã quyết liệt trở về. Sau
khi tác phẩm “Quần Đảo Ngục Tù” được tung ra quần
chúng, Solzhenitsyn bị chính quyền Liên Bang Sô
Viết trục xuất khỏi quê hương ông. Năm 1977, Solzhenitsyn
đến định cư ở thành phố Cavendish, thuộc tiểu
bang Vermont, Hoa Kỳ. Solzhenitsyn đã được dân
chúng Hoa Kỳ nồng nhiệt đón tiếp ông, một thiên
tài đã từng đoạt giải Nobel về văn chương từ năm
1970. Sống nơi đất mới đầy Tự Do và Nhân Bản,
Văn Hào Alexander Solzhenitsyn tiếp tục lên tiếng
bằng ngòi bút sắc bén của ông báo động cho nhân
loại biết về tội ác và hiểm họa của Cộng sản.
Mặc dù được ưu đãi về mọi phương diện, nhưng đến
khi chế độ Cộng sản đã thực sự không còn nữa ở
Nga Sô, ông đã bỏ lại tất cả để trở về cố hương
không tiếc nuối. Có lẽ ông không thích màu hoa
phượng tím đã làm cho ông khổ đau vì nhung nhớ?
Đối với nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, và
nhạc sĩ Phạm Đình Chương, thì Solzhenitsyn quá
nhiều diễm phúc. Mai Thảo đã từng mơ ước viết
thêm tác phẩm “Ngày Tái Ngộ Hà Nội” sau khi ông
được ngưỡng mộ qua cuốn “Đêm Giã Từ Hà Nội”, và
Nguyên Sa mơ ước được ngắm em mặc áo lụa trên
những con phố Hà Đông, và nhạc sĩ Phạm Đình Chương
mơ ước được hát Hội Trùng Dương tại nhà hát lớn
Thủ Đô Hà Nội. Nhưng mơ ước của Mai Thảo và Nguyên
Sa và Phạm Đình Chương không bao giờ thực hiện.
Tôi còn nhớ, một lần buổi trưa mùa hạ ngồi trong
quán Doanh Doanh trên đường Sunset, Los Angeles,
nhìn xuyên qua khung cửa, vài chùm hoa phượng
tím đong đưa, anh Mai Thảo đã lắc đầu có vẻ bực
bội:
- Cái hoa màu tím ấy, tớ không bao giờ thích.
Dù muốn dù không, chúng ta vẫn còn ở đây. Và mỗi
khi nắng hạ trở về đành phải nhìn những màu hoa
tím buồn bã như một định mệnh an bài.
Ngày xưa, khi còn ở trong quân ngũ, mỗi lần hành
quân qua buôn bản, thôn làng, dừng chân trên những
sườn đồi hun hút nắng, lung linh trên những cánh
hoa sim tím ngút ngàn. Tôi chạnh nhớ đến “Màu
Hoa Sim Tím”của Hữu Loan thời tiền chiến, nhạc
sĩ Dũng Chinh phổ nhạc và được quần chúng yêu
thích lúc bấy giờ. Chiến tranh lan tràn khắp chốn,
và từng lớp thanh niên, sinh viên giã từ mái trường
thân yêu để lên đường ra trận mạc, nên cái không
khí lo âu ngộp thở như bao trùm lên mỗi gia đình
hậu phương. Bài hát “Những Đồi Hoa Sim” đã tạo
thành danh nổi bật sáng chói tên tuổi ca sĩ Phương
Dung “Con Nhạn Trắng Gò Công”.
Hữu Loan, thi sĩ nổi tiếng trước 1945, tham gia
kháng chiến chống Pháp. Quê ở làng Vân Hoàng,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sinh khoảng trước
năm 1920. Đã từng cộng tác trên các tạp san Văn
Học xuất bản ở Hà Nội trước năm 1945. Bài thơ
“Màu Tím Hoa Sim” ông sáng tác trong thời gian
ở quân ngũ, nhưng khi bài thơ lưu hành trong vùng
kháng chiến... quá mạnh mẽ, nên bị cấm phổ biến
với lý do “nặng tình cảm làm nản lòng cán bộ và
chiến sĩ”, cho ông giải ngũ không có lý do hợp
lý... Đến khoảng thời gian 1956-1957, ông tham
gia nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” do nhà văn Phan
Khôi chủ trương, sáng tác những tác phẩm hừng
hực lửa, tấn công thẳng thừng vào bọn cán bộ cộng
sản nịnh hót, đố kỵ, ám hại anh em... qua tác
phẩm “Cũng Những Thằng Nịnh Hót” và truyện ngắn
“Lộn Sòng”. Nội dung tác phẩm của ông ghi lại
những thực trạng đau xót của xã hội Cộng Sản đầy
ghê tởm mà ông là nạn nhân (tài liệu Tuệ Chương).
Sau khi nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị Đảng đánh tơi
bời, nhà thơ Hữu Loan cũng bị hốt vào trại cải
tạo vài năm, rồi đưa về giam lỏng tại địa phương
không biết sống chết ra sao.
Về trường hợp nhạc sĩ Dũng Chinh, anh xuất thân
Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Khóa 27. Sau khi ra trường,
anh thuyên chuyển về Phan Thiết, một thời gian
theo các đại đội hành quân, đã bị phục kích tử
trận tại đồi Beatrice khoảng sau Tết Mậu Thân
1968, lúc đó Dũng Chinh đang ở vào tuổi 27, cùng
với tuổi của thi sĩ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Quách
Thoại, Nguyễn Nhược Pháp... (Tuệ Chương kể lại).
Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan như sau:
Nàng
có ba người anh đi bộ đội
Những
đứa em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi là người chiến binh xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về thì thương người vợ
chờ
Bé nhỏ chiều quê
Nhưng không chết người trai khói lửa
mà chết người em gái hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi, giây phút cuối chẳng được nghe em
nói
chẳng được trông thấy em một lần
Ngày xưa Nàng yêu hoa sim tím
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc
được tin em gái mất trước tin em lấy chồng
Một sớm thu về gờn gợn nước sông
đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng
trông ảnh chị khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi sim
những đồi hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa:
“Áo anh sứt chỉ đường tà vợ anh mất sớm,
mẹ già chưa khâu!”
|
|
Từ
khi biết yêu người, yêu đời, tôi thích màu vàng,
có lẽ màu của lãng mạn tình yêu, của rực rỡ huy
hoàng mộng ước... “Áo nàng vàng anh về yêu
hoa cúc. Áo nàng xanh anh mến lá sân trường. Sợ
thư tình không đủ nghĩa yêu thương. Anh thêm mực
cho vừa màu áo tím” (Nguyên Sa), tuy nhiên,
màu tím, đôi khi cũng làm cho tôi cảm thấy bâng
khuâng ray rứt cả tâm hồn...
Em
ơi, tím cả cuộc đời
Tím lên mái tóc, tím lời yêu thương..
Một
tà áo tím bay trong gió thu nhè nhẹ, mái tóc thề,
buông thả đôi vai gầy, từng bước chân son trên
lối về lớp học... sao mà dễ thương quá đi thôi.
Nếu có chút tâm hồn nghệ sĩ, chắc chắn sẽ xao
xuyến bàng hoàng sáng tác thành thơ, thành nhạc...
để gửi gắm nỗi niềm riêng tư.
Tôi đi giữa những hàng phượng tím trong những
thành phố Cali mà lòng bỗng chạnh nhớ về màu tím
mộng mơ xứ Huế năm nào. Có còn gì để nhớ để thương
từ lúc bỏ hoàng cung hoang vắng:
Chiều
có nhớ mây về trên đỉnh Ngự
Giòng sông Hương hờ hững bóng trăng sầu
Em đứng đợi mấy cửa thành hoang vắng
Nghe từ tâm cánh hạc vút xa bay
Hàng cây khô nội thành câm lặng khóc
Lệ của trời hay Tôn Nữ chờ mong
Loài hoa dại trong vườn thu Thượng Uyển
Người đã quên từ lúc bỏ Hoàng cung
Đêm nín thở bờ sông lên tiếng hát
Lời Nam Ai cắt ruột não nề đau
Ta đã mất quê em từ dạo đó
Đôi bàn tay chiều rụng gió Kim Long
Thời gian ơi! Thổi về mây Cửu Đỉnh
Như giọt trăng trên tháp cũ điêu tàn
Em có biết lời thơ đầy mật ngữ
Đời trôi tan như bóng nắng vô thường
|
|
(Từ
Lúc Bỏ Hoàng Cung – Thái Tú Hạp)