TRĂNG ĐÊM DƯƠNG TỬ

TRONG HỒN THƠ HỒ DZẾNH

 THÁI TÚ HẠP

Có những buổi chiều cuối thu, sương mù phủ xuống âm u khắp núi rừng Kỳ Sơn, một mình đi giữa hàng lau bạc trắng. Cái tĩnh mịch hoang vắng của đất trời, cơ hồ chỉ cần một tiếng chim kêu cũng đủ làm giao động cảnh trí mênh mông của buổi chiều thêm hiu quạnh. Những giây phút lắng đọng tâm tư như thế, tôi thường hay nhớ đến những khúc ca ngắn của bài thơ Mầu Cây Trong Khói của Hồ Dzếnh, đã được Dương Thiệu Tước phổ thành ca khúc Chiều:

Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây...

Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?

Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...

Lời thơ của Hồ Dzếnh như một định mệnh theo tôi đến suốt đời. Tôi đã thuộc duy nhất bài hát này, khi còn lẻ loi một mình ở rừng núi Thượng Đức.  Đại Lộc.  Ái Tử.  Trên Phá Tam Giang.  Hay buổi chiều lang thang ven những ngọn đồi Đà Lạt. Và cuối cùng ở những con đường dưới chân núi Kỳ Sơn ở quê nhà.

Nhà thơ Hồ Dzếnh, thân sinh ông là ông Hà Kiến Huân, người Quảng Đông, có thể vì sinh kế nên lưu lạc đến Việt Nam, và đã sang một chuyến đò duyên nợ với cô lái tỉnh Thanh Hóa. Sau những ngày hạnh phúc bên nhau, Hồ Dzếnh đã ra đời, và không ngờ lớn lên đã trở nên một nhà văn, thơ xuất sắc trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Mặc dù Hồ Dzếnh sinh trưởng trên xứ sở Việt Nam, nhưng trong tâm tưởng lúc nào ông cũng mơ về một quê hương đầy bản sắc thơ mộng. Những hình ảnh mây trắng ngàn năm trên Lầu Hoàng Hạc vẫn còn bay lãng đãng.  Những thảm cỏ non nơi cánh đồng Anh Vũ vẫn ngút ngàn kiêu sa. Vẫn những hàng liễu buông đầy lãng mạn trên Tây Hồ soi bóng:

Ta nhớ màu quê, khát gió quê
Mây ơi ngưng cánh đợi ta về
Cho ta trông lại tầng xanh thẳm
Ngâm lại bài thơ “Phương Thảo Thê”

Đất Thánh Trời Đông, Mẹ Á Châu
Anh hoa ngàn thuở rạng phong hầu
Chín cung thăm thẳm hồn hương khói
Danh vọng vang lừng mây gió Âu

Liễu Động Đình thơm chuyện hảo cầu
Tóc thề che mướt gái Tô Châu
Bâng khuâng trăng sáng trời Viên Hán
Một dải Giang Nam nước rợn màu

Ai hát mà nay, gió vẫn thơm
Ai đau non nước não căm hờn?
Chiêu Quân nếu mãi người Cung Hán
Thi tứ tìm đâu nét tủi hờn?

Mây ơi có tạt về phương Bắc
Chầm chậm cho ta gửi mấy lời
Từ thuở ly hương ta vẫn nhớ
Nhưng tình xa lắm gió mây ơi!
(Tư Hương)

Cõi thơ của Hồ Dzếnh thể hiện cái thế giới đầy tình yêu thương chân thật, như hạt ngọc lấp lánh kết tinh từ đời sống ấu thơ, đầy những bất hạnh nghèo khó, nhưng không thiếu những cảnh tượng hồn nhiên, thơ mộng, bao dung, như biển trời. Hồ Dzếnh đã tâm sự: “Hỡi nước Việt Nam, tôi nghiêng lòng xuống Người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của Người, vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo...”. Những lời trân quý ông dành dâng tặng đến Người là Mẹ ông. Có lẽ suốt chuỗi đời ấu thơ, ông sống trong vòng tay trìu mến của Mẹ, nên ông yêu kính Mẹ vô cùng. Chính vì ông yêu Mẹ nên ông ca tụng hình ảnh những người con gái Việt Nam, suốt một đời thủy chung tận tụy vì chồng con:

Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
Tôi biết tình cô u uất lắm
Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa
Má hồng mỗi tiết mỗi phôi pha
Khi cô vui thú, là khi đã
Bồng bế con thơ, đón tuổi già...
(Cảm Xúc)

Hồ Dzếnh bước vào làng văn, thơ từ năm 1937, với một số bài gởi đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ Nhật, Tạp San Mùa Gặt Mới. Những tác phẩm đã xuất bản như Quê Ngoại (Thơ 1943), Hoa Xuân Đất Việt (Thơ 1946), Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (Truyện 1942), Cô Gái Bình Xuyên (1946), Chân Trời Cũ  (Truyện 1942). Văn của Hồ Dzếnh trong sáng nhẹ nhàng, tình cảm chân thật gần gũi, ấm cúng như một hạnh phúc bình dị quen thuộc quanh đời sống thôn dã, nồng thắm quê hương. Về thơ Hồ Dzếnh cấu trúc những sáng tạo sâu sắc, mới lạ, chan chứa trữ tình, thể hiện một hồn thơ chân thành, tuyệt đẹp và độc đáo. Trong hai tập thơ Quê Ngoại và Hoa Xuân Đất Việt, được nhà văn Mai Thảo nhận định: “Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh hơn cả Xuân Diệu và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng nhịp nắng trên mênh mông đài trán thiên nhiên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, 20 tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn mình phơi phới, một tập thơ cỏ non lả lả, một tập thơ cốm mới đậm đà, một tập thơ mười tám cái xuân đầy, đọc mỗi câu tưởng như có mật, có đường ngọt trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh là cái trạng thái ngu ngơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ, Quê Ngoại không hằn một nếp nhăn. Với tôi, một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có cái khí thế vạm vỡ của sức sống như một vươn tới, cái vóc dáng của tình yêu như một kín trùm dào dạt. Dẫu cho lỡ cả thiên đường, thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa. Hồ Dzếnh không làm thơ đâu. Thơ đã có, đâu đó, trên mây, trên cành, trong nước chảy dưới chân cầu,trong không khí, thơ một thuyền đầy, thơ một chuyến lớn chở Hồ Dzếnh đi vào thênh thang tiếng nói...”

Hồ Dzếnh, ông là một nhà thơ khí khái không quỵ ngã trước mọi áp lực của thời thế, ông cố vượt qua mọi giông bão cuộc đời, tạo thế đứng lẫm liệt của một cây thông giữa bạt ngàn lau lách, nên ông đã giữ được niềm quý trọng của quần chúng nuôi hoài những cảm tình qua cõi thơ trong sáng, tình người, đầy hồn nhiên, thơ mộng của ông.

Khi thi sĩ Bùi Giáng còn lang thang nơi trần thế, mỗi lần đọc đến những bài thơ lục bát của Hồ Dzếnh, Bùi Giáng biểu tỏ niềm mến phục chân tình qua nhận xét “chẳng khác giải Ngân Hà lấp lánh nhớ nhung trên bầu trời Văn Học Việt Nam”:

Phút linh cầu mãi không về
Phân vân giấy trắng chưa nề mực đen
Khói trầm bên giấc mơ tiên
Bâng khuâng... trăng rải qua miền quạnh hiu
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam
Rạc rời, vó ngựa quá quan
Cờ treo ý cũ, mây dàn mộng xưa
Biển chiều vang tiếng nhân ngư
Non xanh thao thiết trời thu rượu sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng nương quán khách nghe màu tà huân
Buồn Tư Mã, nhớ Chiêu Quân
Nét hoa thấp thoáng, ý thần đê mê
Phút linh cầu mãi không về
Phân vân giấy trắng chưa nề mực đen...

Bùi Giáng đã không ngượng ngùng mà thẳng thắn phát biểu: “Ta phải cố quên mấy bài lục bát của Hồ Dzếnh thì mới đủ can đảm làm thơ. Nhưng mỗi phen đang giữa cơn chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ tới cái bài Phút Linh Cầu của Hồ Dzếnh thì ối thôi! Ối thôi! Chẳng còn thể nào tiếp tục công việc gì nữa cả...Linh hồn bỗng nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng khác vô phương nắm cầm lại... Không còn một loại thơ kim cổ nào đứng nổi trước cái trận chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm bất cứ trong thi ca cổ kim một bài thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của ông bạn Minh Hương...”

Thái độ khiêm cung của Thi sĩ Bùi Giáng đã làm cho chúng ta liên tưởng đến Thi hào Lý Bạch, khi qua chơi lầu Hoàng Hạc, đọc bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, giật mình chỉ viết nên hai câu:

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu

Trước mắt có cảnh, nói không được
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu.

Ngoài những bài thơ trứ danh đã đan cử ở trên, riêng tôi vẫn còn yêu thích những giòng thơ tích lũy tình yêu thánh hóa, ươm đầy ảo vọng tương lai, mâu thuẫn nội tâm của Hồ Dzếnh, chất ngất những hoài nghi:

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần
Tôi nói khẽ: gớm làm sao nhớ thế

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Em tôi ơi tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thuở ân ái mong manh hơn nắng lụa

Hoa bướm ngập ngừng cỏ cây lần lữa
Hẹn ngày mai mà đến sẽ vui hơn
Chỉ ngày mai mới đẹp ngày mai thôi
Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé

Tôi sẽ trách - cố nhiên - nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa

Ý tưởng nối kết của giòng luân lưu tâm thức từ nghìn xưa cho đến ngàn sau như một hóa thân tiền kiếp, hiện tượng chỉ có được nơi các bậc Chân Tu Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta chỉ là những hạt bụi biến hóa vô thường, mắc xích nghiệp chướng luân hồi qua từng kiếp sống. Thời gian qua từng sát na đã là sự đổi thay trùng trùng duyên khởi. Cuối cùng rồi mọi người cũng phải chọn cho mình chuyến đi vào cõi hư vô tuyệt mù.

Nhà thơ tài danh Hồ Dzếnh đã nằm xuống vĩnh viễn ngày 13-8-1991, khi tuổi thọ vừa 75. Sau khi được tin ông ra đi, Hà Nội đã rầm rộ mang đầy hoa đến phúng điếu, đăng tin trên khắp nhật báo, tạp san văn học, cùng với những bài viết ca ngợi Hồ Dzếnh như một thiên tài của Đất Nước. Trong lúc ông còn sống, chỉ là một công nhân thợ đúc thép Gia Lâm tầm thường, nghèo khổ, ngày ngày đi về căn gác nhỏ, thầm lặng như một tội đồ, không một ai thương tiếc.

( Trích Tuyển Tập Giữa Trời Hoa Bay)