|
Sưu Tầm: Nguyễn Ngạch
Tổng
Quan Văn Học Dân Gian Quãng Nam-Đà Nẵng
-
Văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng là một nền
văn học trẻ, mới ra đời chừng sáu trăm năm nay,
tính từ thế kỷ XV - đời nhà Hồ, khi lãnh thổ Amaravati
của Chăm-pa đã thuộc về quyền lực nhà nước Đại Việt.
Nhưng văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng không
bắt đầu từ số không tay trắng. Chuyển cư vào lập
nghiệp nơi đất Quảng xa xăm, mỗi lưu dân Quảng Nam
đều mang trong mình chút lưng vốn văn học dân gian
cả dân tộc, bởi họ xa rời nguyên quán gốc rễ nhưng
không hề đoạn tuyệt với quá khứ cội nguồn, không
hề xem quá khứ là dĩ vãng. Với họ, đây là giang
sơn Đại Việt vừa thành quê hương mới, đồng thời
là xứ Amaravati từng thuộc sở hữu một lân bang -
dẫu sao cũng đất khách quê người. Tình cảnh ấy càng
làm cho họ ngày đêm khôn nguôi nỗi nhớ về quê cha
đất tổ. Và có lẽ câu hát đầu tiên của người xa xứ
vẫn là câu hát ngày xưa bên dòng sông Mã, sông Hồng:
"Đêm qua ra đứng
bờ ao - Trông cá cá lặn trông sao sao mờ - Buồn
trông con nhện giăng tơ - Nhện ơi nhện hỡi nhện
chờ mối ai...", "Trên trời có đám mây
xanh - Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng - Ước
gì anh lấy được nàng - Để anh mua gạch Bát Tràng
về xây - Xây dọc rồi lại xây ngang - Xây hồ bán
nguyệt cho nàng chao chân", "Núi cao chi
lắm núi ơi - Che bóng mặt trời khuất mặt người thương",
hay "Trèo lên cây bưởi hái hoa - Bước xuống
vườn cà hái nụ tầm xuân - Nụ tầm xuân nở ra xanh
biếc - Em có chồng anh tiếc lắm thay - Ba đồng một
mớ trầu cay - Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không
- Bây giờ em đã có chồng - Như chim vào lồng như
cá cắn câu - Cá cắn câu biết đâu mà gỡ - Chim vào
lồng biết thuở nào ra"... Rồi khi vật lộn với
gian nan để khẩn đất lập làng khai sơn phá thạch,
những tiên dân Quảng Nam lại kể cho nhau nghe truyền
thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, câu chuyện cổ tích
về Mai An Tiêm trên hoang đảo, hoặc thiên tình sử
của những Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Mỵ Châu - Trọng
Thuỷ, Giáng Hương - Từ Thức, Mỵ Nương - Trương Chi...
Và chắc rằng họ vẫn cứ hát, cứ kể bằng chất giọng
đàng ngoài quen thuộc - chứ chưa phải chất giọng
đặc sệt Quảng Nam sau này. Dần dà để phù hợp hơn
với cảnh ngộ mới, họ có nhu cầu thay lời đổi chữ,
thêm mắm dặm muối vào câu hát, câu chuyện, câu nói
hôm qua, và đến một ngày kia, cuộc sống vừa bám-trụ-giữ-đất
vừa quảng-nam-mở-cõi có quá nhiều điều khiến họ
phải suy ngẫm sâu xa, phải tìm cách bộc lộ giãi
bày, đòi hỏi họ phải tự mình sáng tác những câu
chuyện, câu hát, câu nói của chính hôm nay. Đó là
con đường hình thành và phát triển của văn học dân
gian Quảng Nam - Đà Nẵng suốt sáu thế kỷ qua.
- Về
sáu trăm năm hình thành và phát triển của văn học
dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, đã có nhiều người
để tâm sưu tầm, nghiên cứu. Chỉ tính riêng một phần
tư thế kỷ vừa qua, có thể kể đến Lâm Quang Thự với
công trình Đất Quảng trong thơ ca do Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc tỉnh Thanh Hoá xuất bản năm 1976; Nguyễn
Văn Bổn với tiểu luận Đất nước và con người Quảng
Nam - Đà Nẵng qua văn học nghệ thuật dân gian, Tôn
Thất Bình với bài
viết Hát bả trạo tại Quảng Nam, Trần Hoàng với bài
viết Suy nghĩ về thơ ca dân gian của hai cuộc kháng
chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ ở Quảng Nam - Đà
Nẵng; hay tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới
của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Trần Hoàng, Võ Văn Thắng
và bài viết Thủ Thiệm : tiếng cười dân gian độc
đáo của đất Quảng của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Tôn Thất
Bình, Trương Giảng - tất cả đều được in trong công
trình Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng do Sở
Văn hoá - thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng chủ trì
sưu tầm biên soạn (tập I xuất bản năm 1983, tập
II xuất bản năm 1985). Có thể kể đến Huỳnh Ngọc
Trảng và Vu Gia với phần biên khảo về văn học dân
gian huyện Đại Lộc trong Địa chí Đại Lộc (NXB. Đà
Nẵng - 1992). Rồi Thạch Phương trong tiểu luận Ca
dao của một vùng đất (Ca dao Nam Trung Bộ - NXB.
Khoa học xã hội - 1994) cũng chủ yếu bàn về ca dao
và những thể loại có liên quan đến thơ ca dân gian
của Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngoài ra còn không ít lời
bình về từng tác phẩm văn học dân gian đất Quảng
đã được đăng rải rác trên báo chí.
-
Ý thức về cội nguồn Đại Việt thể hiện rất rõ trong
truyền thuyết Ngũ Hành Sơn. Mô-típ rồng đẻ ra trứng,
trứng nở thành một nàng tiên xinh đẹp rõ ràng là
có quan hệ với mô-típ mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm
trứng, trứng nở thành trăm con trong truyền thuyết
Con Rồng cháu Tiên. Và trên vùng đất chưa hề có
bóng dáng con người, hình ảnh ông lão ngư dân bị
đắm thuyền từ phương Bắc trôi dạt tới được thần
Kim Quy dạy cách bảo vệ quả trứng rồng cho đến ngày
khai nở đã nói lên gốc gác Thanh - Nghệ của những
lưu dân đất Quảng. Rồi cảnh thần Kim Quy tháo móng
chân trao cho ông lão cũng gợi nhớ cảnh Rùa Vàng
từng tháo móng chân trao cho vua Thục làm lẫy nỏ
trong truyền thuyết An Dương Vương ngày nào. Như
vậy với truyền thuyết Ngũ Hành Sơn, người Quảng
đã biết dựa vào cha ông để sáng tạo cho riêng mình
một truyện cổ dân gian rất quen mà rất lạ. Ở đây
ông lão ngư dân là lạ, mà vỏ trứng rồng lớn mãi,
lớn mãi thành năm ngọn núi Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả,
Thổ kia cũng là lạ. Những cái lạ ấy là đóng góp
riêng của người Quảng vào văn học nước nhà. Càng
ý thức về cội nguồn Đại Việt, người Quảng xưa càng
ý thức rõ hơn tình cảnh đất khách quê người. Họ
hiểu rằng để có thể sinh tồn nơi đầu sóng ngọn gió
này, họ vừa phải dám dũng cảm đương đầu - thậm chí
dám mạo hiểm dấn thân, lại vừa phải biết điều tế
nhị trong quá trình giao lưu hội nhập với cư dân
bản địa. Tục cúng đất - hay là cúng tá thổ độc đáo,
mỗi năm một lần, lễ vật dâng cúng gồm toàn các món
ăn đặc trưng Chiêm
Thành, thể hiện cách ứng xử khôn ngoan nhạy cảm
của người Quảng xưa. Qua việc làm đậm đà màu sắc
tâm linh thành kính và thấm đẫm chất chính trị,
tiên dân Quảng Nam như muốn bày tỏ cùng cộng đồng
người Chăm rằng do chẳng đặng đừng mà phải đứng
chân lâu dài trên lãnh thổ Amaravati, đồng thời
khiêm nhường tự nhận chỉ là người tá thổ - mượn
đất, nghĩa là vẫn không hề quên đây là đất Chăm-pa.
Mặt khác qua truyện cổ dân gian, họ tìm cách lý
giải thêm sự có mặt của mình. Nhiều thần thoại,
truyền thuyết dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng khẳng
định công lao khai sơn phá thạch của người Quảng
xưa ở những vùng đất vốn còn rất đỗi hoang sơ. Thần
thoại Sự tích núi Thạch Bồ kể về một vị thần thân
hình cao lớn lạ thường - và hẳn là có gốc gác thần
linh Đại Việt - nhổ tre vặn thừng
đan sọt, lấy cả cây tre làm đòn gánh, gánh đất đắp
sông xây núi. Thần thoại Sự tích Lò Thung cũng kể
chuyện một ông khổng lồ gánh đất đắp sông, đánh
nhau với rái cá, chẳng may té ngã, hai tảng đá lớn
ở hai đầu gánh văng ra xa, làm thành hai quả núi,
một chân ông chống vào vách đá khiến nơi này lún
sâu thành hang, còn chân kia ông giẫm mạnh lên bờ
đá ven sông, in dấu bàn chân ngoại cỡ vào mặt đá.
Đáng chú ý nhất trong chủ đề khai phá giang sơn
là truyền thuyết Sự tích đất Gò Nổi kể về một lưu
dân xứ Quảng tên Lê Văn Đạo. Ông Lê Văn Đạo vào
Thăng Hoa làm nghề chài lưới, có lần đánh cá trên
sông Thu Bồn thì trời nổi cơn giông, sóng gió đẩy
thuyền ông càng lúc càng xa bờ. Giữa cơn khốn khó,
ông bỗng thấy một đốm sáng hiện ra trước mũi thuyền.
Và trong khi cố sức chèo huyền theo đốm sáng kia,
nhờ tia chớp ông nhận ra đó chính là con chim màu
đỏ như huyết đang bay dẫn đường đưa ông đến một
nơi đất đai tươi tốt chưa hề có ai sinh sống. Khi
chuyển gia đình tới đây định cư khẩn đất lập làng,
thấy dãi đất này bốn bên sông nước bao bọc, ông
Lê Văn Đạo bèn đặt tên
là Gò Nổi. Ở Đại Quang huyện Đại Lộc, dân gian còn
lưu truyền Sự tích Gò Đùi kể chuyện một nàng công
chúa mải mê ngoạn cảnh nên lạc lối vào sâu trong
vùng gò Đùi - ngày ấy vẫn đương còn là khu rừng
hoang vắng đầy thú dữ - và chẳng may bị cọp vồ.
Khi đoàn quân của vua cha đến cứu nàng thì đã quá
muộn: công chúa bị cọp ăn thịt, chỉ còn trơ lại
khúc đùi, bên cạnh có con bò rừng nằm
canh giữ, và dường như nếu không có con bò trọng
nghĩa, hẳn là công chúa hoàn toàn mất xác. Thương
tiếc con gái, nhà vua cho tạc bức tượng có hình
khúc đùi người- di thể của công chúa -
và con bò rừng kia để thờ cúng. Thật ra, bức tượng
tạc khúc đùi người cạnh con bò rừng này là một mảnh
vỡ của tấm phù điêu bằng đá chạm nổi phần đùi thần
Xi-va bên con bò thiêng - vật cưỡi quen thuộc của
thần. Rõ ràng qua truyện cổ dân gian, đôi khi người
Quảng xưa cố tình Việt hoá thần tích Chăm-pa nhằm
suy nguyên một sự vật, hiện tượng nào đó theo nhãn
quan riêng của dân tộc mình. Đấy cũng là cách khẳng
định công lao phá thạch khai sơn của người Quảng
ở những vùng "tá thổ" hoang vu.
Đúng
như các tác giả tiểu luận Truyện cổ của một vùng
đất mới dẫn trên đã nhận xét, "thần thoại,
truyền thuyết vùng đất Quảng ít có yếu tố thần kỳ,
hoang đường, mà trái lại mang
nhiều nét hiện thực", và ở trường hợp truyện
cổ tích Quảng Nam - Đà Nẵng, "tính chất hiện
thực, một lần nữa, cũng giống ở trường hợp các thần
thoại, truyền thuyết, đã lấn át hẳn tính chất hoang
đường, kỳ ảo". Tuy nhiên, đọc kỹ truyện cổ
dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, vẫn có thể bắt gặp
một vài chi tiết thần kỳ thấm đẫm chất thơ thuần
phác. Chẳng hạn chi tiết tấm da ngựa si tình bất
thần quấn chặt lấy cô tiểu thư xinh đẹp bay bổng
lên ngọn cây cao trong Sự tích con tằm có thể sánh
ngang với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc nhất
của truyện cổ dân gian Việt Nam.
-
Người Quảng thích biện luận, "Quảng Nam hay
cãi", hay cãi đến mức đã sáng tác cả một câu
chuyện về ông Vua Cãi, vì thế truyện cười dân gian
Quảng Nam - Đà Nẵng thường xuất hiện những chàng
trai được vợ nhờ giỏi biện luận, chẳng hạn chàng
trai trong truyện Giỏ đựng chày. Truyện này kể về
một người được xem là bậc thầy trong nghề đan lát,
luôn tự hào rằng cái gì ông ta cũng đan được, rằng
ai đan cái gì ông ta cũng biết được, tuyên bố sẵn
lòng gả con gái cho người nào đan cái mà ông ta
không biết, và cuối cùng đành phải thực hiện lời
hứa vì ông chịu thua không thể đoán ra cái có hình
thù gần giống như cái rọ nhưng hai đầu bằng nhau
còn ở giữa lại hẹp là... cái giỏ đựng chày. Khi
nghe ông cật vấn: "Giã gạo xong thì đem chày
dựng vào xó nhà, cần gì đựng trong giỏ?", chàng
trai đan
giỏ đựng chày đã biện luận: "Chuyện ấy không
thành vấn đề, con chỉ biết ông không đan được cái
này, và quan trọng hơn, con đan xong mà ông vẫn
chưa biết là cái gì". Một số truyện cười dân
gian Quảng Nam - Đà Nẵng còn có nhân vật ông mai
- người môi giới cho các cuộc hôn nhân. "Cửa
em
cao hàng rào em chắn - Buồng the em đóng chín mười
tầng - Con ong chui không lọt biểu con bướm đừng
lao xao - Biểu chàng về sắm lễ cho cao - Cậy ông
mai cho giỏi mới bước chân vào ngõ em". Cái
giỏi của ông mai ở đây không gì khác là giỏi biện
luận. Thác lời vào nhân vật ông mai, người Quảng
từng trổ tài biện luận: nào là tôi sẽ làm mai cho
ông một chàng rể giỏi giang, chỉ có điều là cậu
ta con người không được ngay thẳng; nào là tôi sẽ
làm mai cho bà một cô dâu hiền thục, chỉ có điều
cô ấy mồm miệng không được chỉn chu. Tới khi cưới
hỏi xong xuôi, hai họ rõ ra là chàng rể thì gù lưng
- chứ không phải tính nết so đo như nhà gái nhầm
tưởng, cô dâu thì môi sứt - chứ không phải ăn nói
vụng về như nhà trai hình dung, ông mai liền biện
luận rằng mình đã báo trước con người chàng rể không
được ngay thẳng, mồm miệng cô dâu không được chỉn
chu rồi, song hai bên gia đình vẫn đồng lòng chấp
nhận đấy thôi... Đặc biệt yếu tố gây cười bắt nguồn
từ sự biện luận của nhân vật trung tâm khá phổ biến
ở nhiều truyện cười Thủ Thiệm. Có lần Thủ Thiệm
bị quan huyện sai lính lệ bắt giam: "Lệ đâu!
Đưa thằng này xuống buồng giam, giam đầu nó lại
! ". Thế là Thủ Thiệm chỉ đứng ở cửa buồng
giam đưa đầu vào thôi, lấy lý quan huyện chỉ bảo
giam đầu chứ không bảo giam đít, buộc lòng quan
huyện phải tha Thủ Thiệm cho yên chuyện. Hoặc một
hôm Thủ Thiệm mời cơm ông thông gia nhưng chỉ dọn
toàn mắm nục. Chờ khách ngồi vào mâm, Thủ Thiệm
vồn vã thưa: "Không mấy khi anh sang chơi mà
nhà lại không có gì, chỉ có cá nục, anh vui lòng
dùng tạm ! ". Nghe ông thông gia thẳng thắn
nhận xét: "Mắm nục chứ làm chi có cá nục !
", Thủ Thiệm liền giải thích: "Thì trước
lúc thành mắm, nó cũng từng là cá nục đó chứ!".
Nào ngờ ông thông gia là tay giỏi biện luận không
kém, chờ dịp Thủ Thiệm sang chơi nhà mình để trả
đũa: đến bữa cơm chỉ dọn một bát gốc tre chặt nhỏ
mời Thủ Thiệm và bảo đấy là món măng luộc. Khi Thủ
Thiệm phàn nàn: "Gốc tre chứ làm chi có măng!",
ông thông gia bèn giở ngay luận điệu của Thủ Thiệm
hôm nào: "Thì trước lúc thành gốc tre, chẳng
phải nó đã là măng hay sao ?".
-
Truyện cổ chưa phải là mặt mạnh nhất của văn học
dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng. Xem ra người Quảng
có nhiều đóng góp hơn trên lĩnh vực thơ ca, trước
hết là ở ca dao - dân ca. Ca dao - dân ca Quảng
Nam - Đà Nẵng cũng mang đậm dấu ấn tâm lý của những
người mới xa quê, buổi đầu mọi thứ đều thấy lạ.
"Tới đây sông nước lạ lùng - Con chim kêu phải
sợ con cá vùng phải kiêng", hoặc "Tới
đây lạ cảnh lạ quê - Anh em cũng lạ bốn bề người
dưng - Người thương không thấy người thương - Quanh
đi quẩn lại nhớ cố hương thêm sầu". Nghĩa là
buổi đầu mọi thứ đều gợi nhớ, gợi thương. Nhớ thương
đến mức không thể chỉ bộc bạch chung chung như khi
còn ở quê nhà, kiểu lý chiều chiều: "Chiều
chiều ra ngõ ngó mong - Ngõ thì thấy ngõ người không
thấy người", "Chiều chiều ra đứng ngõ
sau - Thấy cây khế ngọt mà đau đớn lòng", "Chiều
chiều ra ngắm sông sâu - Thấy dòng nước chảy dạ
đau từng hồi"... Cũng là lý chiều chiều nhưng
giờ đây thương nhớ phải được giãi bày cụ thể hơn,
khắc sâu hơn cái khoảng không nghìn trùng cách trở
giữa hai phương trời: "Chiều chiều mây phủ
Sơn Chà - Lòng ta nhớ bạn nước mắt và lộn cơm -
Vẫy vùng như cá trong nơm - Sớm mai Nam ta trông
bạn buổi chiều Nồm bạn trông ta". Có điều cuộc
sống đương thời luôn đặt ra cho tiên dân xứ Quảng
nhiều câu hỏi lớn, chẳng hạn cam chịu nhớ thương
mà chấp nhận ở lại với cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình,
hay tìm sự bằng an để giũ bỏ quay về với cái-quen-xưa-bao-đời-vẫn-vậy.
Và câu trả lời của người Quảng là:"Ngó lên
Hòn Kẽm Đá Dừng - Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu
ơi - Thương cha nhớ mẹ thời về - Nhược bằng thương
kiểng nhớ quê thời đừng". Không phải đừng về
mà đừng quay về, đừng hồi hương, bởi giờ đây đã
có thêm một quê hương ! Chính nhờ sống trong thế
giới những cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, người
Quảng xưa có nhu cầu và điều kiện đổi mới cách nhìn,
cách nghĩ. Câu ca dân gian: "Đất Quảng Nam
chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say"
cực tả sự khát khao cái mới, nhạy cảm với cái mới
của người Quảng. "Ra đi mẹ có dặn dò - Sông
sâu chớ lội đò đầy đừng
qua", kinh nghiệm sống khôn ngoan ấy giờ đây
cơ hồ không còn thích hợp nữa. Cuộc sống giờ đây
đòi hỏi con người phải biết tư duy kiểu khác: "Sông
sâu không lội thì trưa - Đò đầy không xuống ai đưa
một mình"... Và nhờ biết tư duy kiểu khác mà
thái độ ứng xử với cái lạ ở người Quảng lúc này
không giống khi vừa mới đến: "Tay ta cầm cần
câu trúc ống câu trắc lưỡi câu thau - Muốn câu con
cá biển
chứ cá bàu thiếu chi", hay "Lên non tìm
con chim lạ - Ở dưới phố phường chim chạ thiếu chi".
Từ chỗ sợ cái lạ - "con chim kêu phải sợ con
cá vùng phải kiêng" - tới chỗ chủ động đi tìm
cái lạ, đó là cả một bước tiến dài trong tư duy
người Quảng xưa. Không hiểu sao chủ thể trữ tình
trong ca dao - dân ca Quảng Nam - Đà Nẵng nói về
tình yêu lứa đôi đa phần là phụ nữ. Có lẽ trên tình
trường họ hứng chịu khổ đau nhiều hơn nam giới,
do vậy mà nhu cầu bộc lộ giãi bày bằng tiếng hát
lời ca ở họ cũng
lớn hơn chăng. Quả là khi yêu, người phụ nữ phải
đối mặt với bao nhiêu bất trắc: "Thương chàng
thiếp phải đi đêm - Té xuống bờ ruộng đất mềm không
đau - Không đau ơi hỡi không đau - Té xuống năm
trước năm sau chưa lành", hoặc "Ba với
ba là sáu - Sáu với bảy mười ba - Bạn nói với ta
không thiệt không thà - Như cây đủng đỉnh trên già
dưới non - Khi xưa bạn nói với ta chưa vợ chưa con
- Bây giờ ai đứng đầu non đó bạn tề - Bạn nói với
ta bạn chưa có hiền thê - Bây chừ hiền thê mô đứng
đó bạn trả lại lời thề cho ta", hoặc "Một
nong tằm là năm nong kén - Một nong kén là chín
nén tơ - Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ - Lênh đênh
quán sấm dật dờ quán sen"... Cả khi hai người
cùng chung cảnh ngộ, thì phụ nữ thường cũng thiệt
thòi hơn: "Thiếp thương chàng đừng cho ai biết
- Chàng thương thiếp đừng lộ tiếng ai hay - Miệng
thế gian nhiều kẻ thày lay - Cực chàng chín rưỡi
khổ thiếp đây mười phần", hay "Anh buồn
có chốn thở than - Em buồn như ngọn nhang tàn thắp
khuya"... Thế nhưng vượt lên tất cả, người
phụ nữ đất Quảng vẫn thể hiện rõ bản lĩnh của mình
trong tình yêu: "Thiếp không thương chàng thì
ra chỗ dở - Cho nên thiếp phải thương đỡ vài ngày
- Thiếp có chồng rồi thiên hạ đều hay - Sợ nước
lui về đông hải càng ngày càng xa", "Liệu
bề thương được thì thương -
Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em", "Xa
xôi chi đó mà lầm - Phải hương hương bén phải trầm
trầm thơm"... Cũng không ai khác ngoài họ đã
chủ động dung hoà kiểu hôn nhân theo sắp đặt với
kiểu hôn nhân có tình yêu - một mô hình hôn nhân
đến nay và trong nhiều thập niên tới xem ra vẫn
còn phù hợp. Hôn nhân theo sắp đặt là kiểu hôn nhân
mà cô dâu và chú rể thường do cha mẹ hay người thân
trong gia đình đôi bên lựa chọn (thậm chí cả hai
chỉ được biết mặt nhau trong ngày cưới)
với mục đích tìm cho cô dâu chú rể người bạn đời
môn đương hộ đối. Còn hôn nhân có tình yêu bắt nguồn
từ tình yêu của những chàng trai, cô gái tự đến
với nhau, đặt khả năng tương thích và những cảm
nhận về nhau lên hàng chính yếu. Đương nhiên người
phụ nữ đất Quảng không đồng tình với kiểu hôn nhân
sắp đặt: "Đôi ta tuổi lứa đang vừa - Trách
cho cha mẹ kén lừa nơi mô", cũng không muốn
bị làng xóm cười chê rằng: "Gái đâu gái hỗn
gái hào - Trai chưa vô làm rể gái đã vào làm dâu".
Họ tự
đến với nhau, yêu nhau và cùng nhau thề non hẹn
biển, sau đó tranh thủ sự đồng thuận của hai bên
gia đình: "Trai mười bảy gặp gái mười ba -
Trai anh hăm sáu gái em đà hăm hai - Lời nguyền
với bạn không sai - Bữa mô có rảnh cậy ông mai đến
nhà", "Con gà trống tía cái lông cũng
tía - Ngọn khoai lang giâm ngọn mía cũng giâm -
Thương nhau không dễ thương thầm - Thương thời rượu
cỗ trầu mâm đến nhà - Em còn thừa lệnh mẹ cha -
Còn có cô chú bác chứ không phải mình ta với chàng"..
Ngôn ngữ ca dao - dân ca đất Quảng nói chung thô
mộc song không phải không có những nét đặc sắc.
Khi cần "chữ nghĩa", người Quảng cũng
rất chi là "chữ nghĩa", chẳng hạn như
trong lời ca bài Lý Thương nhau: "Thương nhau
trường đoạn đoạn trường - Luỵ lưu lưu luỵ dạ dường
kim châm". Một câu lục bát
mười bốn chữ mà đa phần là từ Hán-Việt, trong đó
đáng chú ý là cách đảo từ "trường đoạn"
thành "đoạn trường", "luỵ lưu"
thành "lưu luỵ" nhằm khai thác sức mạnh
biểu cảm của những từ đồng âm dị nghĩa. Có thể dẫn
chứng thêm nhiều trường hợp chơi chữ tương tự, như
câu "Anh từ trong Quảng ra thi - Leo lên đèo
ải chữ chi mập mờ", hoặc câu "Chiều chiều
lại nhớ chiều chiều - Nhớ người quân tử khăn điều
vắt vai - áo vắt vai quần hai ống ướt - Chữ nghĩa
chi chàng mà lấn lướt vô thi - Tiền năm quan ngủ
quán mất đi - Trai nam nhơn mô đối đặng - Gái nữ
nhi xin kết nguyền"... Hay câu "Con gái
La Qua - Qua đường qua chọc - Qua biểu em rằng -
Đừng có la qua". Cái tên "La Qua"
vốn chỉ là một địa danh trong câu "Dù xa cửa
ngõ cũng xa - Dù gần Bến Điện, La Qua cũng gần",
đến đây bỗng trở thành ngữ động từ "la qua"
- tức "mắng anh" (vì anh đã trêu chọc
em). Ngay chữ "qua" cũng rất đa nghĩa:
vừa là thành tố của địa danh La Qua, vừa là anh
(qua chọc, qua bảo, la qua), lại vừa là bước sang
(qua đường). Rõ ràng nghệ thuật chơi chữ của người
Quảng trong câu ca dân gian này khá là độc đáo.
Hình thức tách từ được người Quảng dùng khá thuần
thục trong ca dao - dân ca: "Nhìn xem nam bắc
tây đông - Thấy thiên thấy hạ mà không thấy chàng
- Về nhà đứng thở ngồi than - Cơm ta ăn không đặng
nhớ đến nghĩa chàng đó chàng ơi", hay "Xa
làm chi mà xa quanh xa quất - Xa làm chi mà xa tức
xa tối xa vội xa vàng - Không cho thiếp thở chàng
than đôi lời". Đến chữ nghĩa cũng chia rời,
xa cách, huống chi đôi lứa đang yêu! Sở trường nói
lái thường được tận dụng: "Một chữ anh cũng
thi - Hai chữ anh cũng thi - May thời đậu trạng
dẫu rớt đi cũng ông nghè hồi". Ông "nghè
hồi" ở đây không phải là ông tiến sĩ vinh quy
(nghè: tiến sĩ; hồi: trở về), mà là ông "ngồi
hè" - vì đã thi hỏng tức vẫn còn là anh học
trò nghèo kiết xác, không ngồi ngoài hè thì ngồi
vào đâu được! Tuy đất Quảng không phải là chiếc
nôi của nghệ thuật tuồng, song người Quảng rất thích
tuồng, bởi tuồng truyền thống có nhiều đặc trưng
nghệ thuật khá phù hợp với chất chính trị mạnh mẽ
quyết liệt của dân Quảng: tích tuồng nào cũng xoay
quanh những cuộc tranh giành quyền lực chính trị,
đầy ắp những thoán đoạt, phản loạn, mưu mô, xung
đột giữa chốn triều đình và bao giờ cũng có ít nhất
một vai anh hùng nghĩa hiệp; đạo cụ trên sân khấu
tuồng chủ yếu là gươm đao, côn kiếm; giọng hát tuồng
cơ hồ lúc nào cũng quyết liệt thét gào. Chính vì
người Quảng nhạy cảm với chính trị như thế cho nên
bên cạnh những câu ca dao - dân ca có nội dung chính
trị hẳn hoi, chẳng hạn câu ca dao "Ai lên chín
ngã sông Con - Hỏi thăm ông Hường Hiệu có còn hay
không", hay câu hát "Đứng bên ni Hàn ngó
qua bên tê Hà Thân nước xanh như tàu lá - Đứng bên
tê Hà Thân ngó về Hàn phố xá nghênh ngang - Kể từ
ngày Tây lại đất Hàn - Đào sông Câu Nhí bòn vàng
Bông Miêu - Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu - ở nuôi phụ
mẫu sớm chiều có nhau" (hai chữ "nghênh
ngang" đã công khai bày tỏ thái độ chính trị
của nhân dân Đà Nẵng đang phải chung sống với kẻ
thù), còn khá phổ biến trong thơ ca dân gian Quảng
Nam - Đà Nẵng hiện tượng chính trị hoá ca dao -
dân ca trữ tình. Câu ca dao trữ tình quen thuộc
"Trời mưa ướt bụi ướt bờ - Ướt cây ướt lá ai
ngờ ướt em" được người Quảng chính trị hoá
trở thành những câu trữ tình - chính trị: "Trời
mưa ướt ngõ ướt đàng - Ướt em em chịu ướt Vệ quốc
đoàn em thương", "Trời mưa ướt bụi mía
mưng - Ướt em em chịu ướt anh dân quân em buồn",
"Trời mưa ướt lá trầu vàng - Mưa ơi đừng ướt
anh Vệ quốc đoàn nghe mưa"... Và có lẽ trong
ca dao - dân ca Việt Nam, hiếm có câu ca dân gian
nào có nhiều dị bản như là câu: "Đất Quảng
Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà
say...". Có thể ban đầu đây là một khúc hát
trữ tình, với hai dòng sau được thay đổi cho phù
hợp với cảnh ngộ riêng của từng chủ thể: "Đất
Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa
nhấm đà say - Em thương anh cha mẹ không hay - Như
ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào", "Đất
Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa
nhấm đà say - Kể từ ngày đó đã xa đây - Sầu đêm
quên ngủ sầu ngày quên ăn", "Đất Quảng
Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà
say - Lòng ta như chén rượu đầy - Lời thề nhớ chén
rượu này bạn ơi". Đáng chú ý nhất là các dị
bản: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu
hồng đào chưa nhấm đà say - Thương nhau chưa đặng
mấy ngày - Đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi",
"Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng
đào chưa nhấm đà say - Hai đứa ta ơn trọng nghĩa
dày - Chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ
thương", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
- Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về nằm nghĩ
gác tay - Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em",
"Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng
đào chưa nhấm đà say - Bạn về đừng ngủ gác tay -
Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo"... Xuyên
suốt các dị bản này là tính khẳng định của sự lựa
chọn, trước hết là lựa chọn trong tình yêu. Khi
cô gái Quảng dám tự chọn lựa hạnh phúc "thương
anh cha mẹ không hay" thì dẫu có "nghi
binh" sánh mình với "ngọn đèn giữa gió
biết xoay phương nào", thực chất cô cũng đã
khẳng định cái hướng mà đời cô nhằm đến. Tính khẳng
định của sự lựa chọn càng hai năm rõ mười hơn ở
những cách nói: "kể từ ngày đó đã xa đây -
sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", hay "lòng
ta như chén rượu đầy - lời thề nhớ chén rượu này
bạn ơi", hay "thương nhau chưa đặng mấy
ngày - đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi",
rồi "hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày - chưa nên
câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương".
Song có lẽ tính khẳng định của sự lựa chọn đạt đến
đỉnh điểm khi chủ thể trữ tình - dường như vẫn chính
là cô gái Quảng - tự đặt bản thân trong quan hệ
với người thứ ba: "ai",
"nơi mô", từ đó mở ra cho người mình yêu
khả năng lựa chọn:"coi ai ơn trọng nghĩa dày
cho bằng em", "nơi mô ơn trọng nghĩa dày
bạn theo". Vì thế ngoài các dị bản trực tiếp
được chính trị hoá như "Đất
Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa
nhấm đà say - Anh hùng thước lụa trao tay - Nước
non một gánh vơi đầy ai hay" có liên quan đến
cái chết của cụ Hoàng Diệu, hoặc "Đất Quảng
Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà
say - Tình non nghĩa nước bao ngày - Con trăng cõi
Bắc đã đầy nhớ thương" ra đời vào thời gian
đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Genève 1954,
thì với tính khẳng định của sự lựa chọn vừa nêu,
các dị bản "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
- Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về nằm nghĩ
gác tay - Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em",
"Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng
đào chưa nhấm đà say - Bạn về đừng ngủ gác tay -
Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo", thậm chí
"Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng
đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy
- Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi" cũng rất
dễ dàng được chính trị hoá để trong những cảnh ngộ
không thể nói thẳng được điều cần nói, người Quảng
vẫn có thể kín đáo vận động chính trị đồng thời
gián tiếp tự bộc lộ sự lựa chọn chính trị của mình.
Còn có thể kể thêm những câu ca dao - dân ca tưởng
chỉ để nói về sự thuỷ chung chờ đợi của đôi lứa
xa nhau có khả năng được chính trị hoá như bài Lý
Đò ngang: "Ngó lại quê mình - Bởi em
chèo thuyền - Trên sông cái - Em ngó lại quê mình
- Chim trên cành còn đủ cặp huống chi mình lẻ đôi
- Vì đâu đây với đó đã hai nơi - Chiếc đò ngang
bằng chiếc đũa không lời nhắn đưa - Cây đa bến cũ
đò xưa - Người thương có nghĩa nắng mưa ta vẫn chờ",
hay câu hò khoan: "Sớm mai chàng hoá con chim
trống đứng dựa bìa núi - Chiều lại thiếp hoá con
chim mái đứng dựa bìa rừng - Nỉ non ba tiếng cho
có chừng - Dầu xa muôn dặm biểu bạn đừng có xa"...
-
Câu đố Quảng thường đậm đà màu sắc chính trị. Câu
"Năm ông ngồi lại một bàn - Ông lo việc nước
ông toan việc nhà - Bốn ông chịu tuổi lên ba - Còn
một ông già chịu tuổi lên hai" vừa miêu tả
năm ngón tay trên một bàn tay vừa thể hiện ý thức
gánh vác - nói theo cách nói của các tác giả Đại
Nam nhất thống chí là tinh thần"sốt sắng việc
công" - của dân Quảng. Các câu đố về cây ngô:
"Ba tháng cuốn cờ bồng con đỏ - Một phen cởi
giáp
cứu dân đen" hay về cái máng nước: "Trên
vì nước dưới vì nhà - Lòng người ai rõ cho ta hỡi
lòng" cũng mang ý nghĩa tương tự. Đương nhiên
câu đố Quảng còn thể hiện rõ đặc tính ưa nói lái
của người Quảng: "Hít vào, hít ra, hít một"
- hít một là hột mít, "Cà vô, cà ra, cà nhột"
- cà nhột là cột nhà, "Cúng trên núi, cúng
mê, cúng mải" - cúng mải là cái mủng, "Cú
trong nhà cú ra, cú hãi" - cú hãi là cái hũ,
hoặc "May không chút nữa thì lầm - Cau dày
không bẻ bẻ nhầm cau ranh" - cau ranh là canh
rau...
-
Vè Quảng chủ yếu cũng là vè chính trị, được người
Quảng sử dụng làm vũ khí đắc lực để tuyên truyền
cách mạng. Mỗi bài vè Quảng thường gắn với một biến
cố chính trị hoặc với một nhiệm vụ chính trị nhất
định. Vè Khâm sai - còn gọi là vè Sai đạo - ghi
lại sự kiện Nguyễn Thân đem quân triều đình vào
đàn áp Nghĩa hội Quảng Nam năm 1886: "Lẳng
lặng mà nghe - Cái vè Sai đạo...". Cuộc biểu
tình kháng thuế cự sưu - hay theo cách gọi của Phan
Châu Trinh là Trung Kỳ dân biến - bắt đầu từ huyện
Đại Lộc tỉnh Quảng Nam vào ngày 11 tháng 3 năm 1908
và sau đó nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh miền
Trung. Với sự kiện 11 tháng 3, lần đầu tiên Quảng
Nam trở thành nơi khởi phát một hình thức đấu tranh
chính trị chưa từng có ở nước ta, một cuộc biểu
dương lực lượng chính trị hùng hậu của nhân dân
- xin nhấn mạnh là của nhân dân - một vùng đất nửa
thế kỷ trước từng gánh vác sứ mệnh đánh thắng trận
đầu, cầm chân giặc Pháp. Bài vè Xin xâu chống thuế:
"Lẳng lặng mà nghe - Cái vè xin thuế..."
đã phản ánh sinh động diễn biến và hào khí của sự
kiện chính trị này. Hay như bài vè Tổng tuyển cử
ra đời nhằm cổ động cho các ứng viên do Việt Minh
giới thiệu trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946: "Tống,
Bôi, Hiến, Nhĩ, Diêu, Thao, Huệ - Viện, Xuyến, Sạ,
Bằng, Thự cử tri"...
-
Người Quảng thường xuyên phải đối diện với một thiên
nhiên cực kỳ khắc nghiệt, nhất là vào khoảng tháng
bảy gió nam thổi ròng hàng tuần lễ, đất cát khô
rang, nông thôn cơ cực, dân cày đói vàng con mắt.
Điều đó giải thích vì sao ngoài việc khái quát những
kinh nghiệm nghề nông, tục ngữ Quảng Nam - Đà Nẵng
còn hay nhắc đến cái ăn - đúng hơn là hay cảnh giác
với cái ăn: "ăn không lo của kho cũng hết",
"Ngày làm tháng ăn - Tháng làm năm ăn",
"Ăn như tằm ăn lên", "Quần lãnh áo
lương ăn lường gạo chợ", "Thấy họ ăn khoai
mài vác mai chạy quấy", "Ăn bánh đúc đục
mặt", "Ăn bữa giỗ lỗ bữa cày", "Ăn
xưa chừa nay", "Liệu cơm gắp mắm",
"Ăn ít no lâu ăn nhiều tức bụng", "Đời
cha ăn mặn đời con khát nước", "Miếng
ăn là miếng tồi tàn - Mất ăn một miếng lộn gan lên
đầu", "Ăn một miếng tiếng một đời",
"Ham ăn thì lú ham ngủ thì mê"... Rõ ràng
những câu nói dân gian vừa nêu chứng tỏ người Quảng
sợ mất nhân phẩm hơn là sợ thiếu miếng ăn ! Thật
khó lòng tách bạch trong tâm hồn người Quảng bây
giờ đâu là phần lưng vốn văn học dân gian cả dân
tộc ông cha xưa mang theo làm hành trang trên đường
nam tiến và đâu là phần văn học dân gian bản địa
mới được phóng tác hoặc sáng tác tại chỗ qua sáu
trăm năm. Có điều người Quảng hôm nay có thể tự
hào rằng mỗi câu hát, câu chuyện, câu nói dân gian
mới được phóng tác, sáng tác suốt sáu thế kỷ vừa
bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi đều in đậm
dấu vân tay của tổ tiên mình, và đó chính là cách
các thế hệ người Quảng đóng góp vào kho tàng văn
học dân gian chung của đất nước.
Thạc
sĩ BÙI VĂN TIẾNG
(Theo tạp chí NGUỒN SÁNG DÂN GIAN
số 1, ra tháng 11-2001)
|
|
|
|
|